Cháu Kim Hoa kính tặng Ông -Bà

Cháu Kim Hoa kính tặng Ông -Bà Blog này, nơi Lưu giữ những bài viết về Cụ Đỗ Đình Thiện- Trịnh Thị Điền

Thứ Năm, 10 tháng 2, 2011

NĂM MỚI KỂ VỀ CÂU CHUYỆN KHÔNG CŨ


Trang Thu
(Tạp chí Ngân hàng số 1+2, 2000)

Đây gần như là một câu chuyện cổ tích về những con người Hà Nội xưa mà nếu như không đặt mình vào khung cảnh hào hùng trong những năm tháng kháng chiến sục sôi của dân tộc thì có lẽ chúng ta không thể nào hiểu được những cống hiến quên mình đến mức khó tin của họ. Bước sang thế kỷ XXI, liệu những thế hệ sau có còn biết trân trọng những kỷ niệm cũ hay là để những con người, hình ảnh, sự kiện của quá khứ chìm sâu trong các kho tư liệu và nghiễm nhiên an hưởng cuộc sống mà không chút băn khoăn, xem thế hệ trước không hy sinh nhiều đến thế thì cuộc sống ấy liệu sẽ đi về đâu?
Nhân dịp kỷ niệm 51 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, đặc san “Công an nhân dân” (Bộ Công an) đã viết: “Ở Hà Nội có một cặp vợ chồng mà cuộc sống của họ dường như đã đi vào huyền thoại, bởi những đóng góp tích cực trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuy họ không cầm súng chiến đấu ngoài mặt trận mà âm thầm, lặng lẽ, nhưng quyết liệt và táo bạo nhằm góp phần nuôi dưỡng ngọn lửa cách mạng. Cặp vợ chồng ấy chính là cụ Đỗ Đình Thiện (một trong số thư ký đầu tiên của Bác Hồ khi Cách mạng còn trong thời kỳ trứng nước) và cụ bà Trịnh Thị Điền [1].
Tất nhiên, khi ông Đỗ Đình Thiện (1903-1972) và bà Trịnh Thị Điền (1911) tham gia hoạt động cách mạng thì cũng có nghĩa là quên cả sự sống của bản thân, đâu còn những suy tính thiệt hơn nữa. Ông Thiện đã nói với người bạn học Trịnh Đình Cửu trước ngày đi du học là “chứng nào tim tôi còn đập thì máu tôi còn nóng”. Có lẽ đó là câu trả lời giản dị nhất cho những cống hiến to lớn không ngừng nghỉ của hai ông bà đối với Tổ quốc.
Ông Đỗ Đình Thiện là con út trong một gia đình viên chức, mồ côi cha từ lúc 5 tháng tuổi. Thời học sinh, ông học ở trường Hàng Vôi, nhưng vì tham gia phong trào để tang cụ Phan Chu Trinh nên ông bị đuổi học, phải “đổi khai sinh” xuống Nam Định. Ông nuôi chí du ngoại từ rất sớm, nhưng mẹ ông không muốn đểcngwời con út xa nhà nên đã nghĩ ra mẹo hỏi vợ để cầm chân ông. Đã coi mặt 3, 4 đám nhưng ông Thiện đều không ưng. Sau nhờ anh em ông Cát Thành, Cát Tường, thành viên phong trào “Đông Kinh nghĩa thục” giới thiệu cho ông Thiện và bà Điền gặp nhau, ưng thuận rồi làm lễ ăn hỏi. Nhưng không vì thế mà ông thay đổi kế hoạch đi Pháp du học. Đó là năm 1927, bà vừa tròn 16, còn ông mới bước sang tuổi 24.
Ở Pháp, ông Thiện vừa học vừa tham gia hoạt động cách mạng, rồi vào Đảng Cộng sản Pháp. Đã có lúc ông đi học nghề thợ sơn để hưởng ứng chủ trương “vô sản hóa” ở trong nước. Một tờ báo sau này đã đăng mẩu tin “7/10/1931, một sinh viên tòng học năm thứ 3 trường Đại học khoa học ở Tu-lu-dơ bị bắt ở ga Ma-la-bơ-lăng vì tặng bánh mì có truyền đơn nhét vào trong ruột cho binh lính Việt Nam mãn hạn lên tàu về nước. Truyền đơn này xúi giục binh lính khi trở về nước thì bất tuân thượng lệnh và hưởng ứng phong trào cách mạng 19/11/ năm đó, sinh viên ấy bị Tòa án Tu-lu-dơ phạt 4 tháng tù sau khi nhận hoàn toàn trách nhiệm về việc mình làm, nhưng không chịu khai ai là đồng phạm. Sinh viên ấy, một đảng viên cộng sản, tên là Đỗ Đình Thiện”.
Tuổi thơ của bà Trịnh Thị Điền cũng không hề dễ dàng. Mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm lên 4, ở với người anh cùng cha khác mẹ, cuộc sống vất vả đã biến bà thành một con người trầm tư, sống nội tâm và đầy nghị lực. Trong khi ông Thiện đang du học ở Pháp thì cô Điền ở trong nước, qua sự giới thiệu của cậu em họ là Ngô Đình Mẫn, bắt đầu tham gia hoạt động ở chi bộ phố Huế của Đảng Tân Việt. Đầu năm 1930, sau khi ba đảng hợp nhất, chủ trương tăng cường gây dựng cơ sở ở Hải Phòng-Hòn Gai là nơi tập trung nhiều công nhân, cô quyết dịnh thoát ly gia đình xuống hoạt động trong tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương ở Hải Phòng. Cô để lại cho người anh một lá thư tỏ ý chán đời muốn đi tu. Anh cô tưởng thật đã cho in ảnh cô nhờ Sở cảnh sát tìm kiếm khắp các chùa chiền.
Tại Hải Phòng, cô bắt liên lạc với ông Nguyễn Tạo, là người cùng hoạt động ở chi bộ phố Huế trước đây. Nhóm hoạt động của cô còn có ông Chức, ông Sáng và 2, 3 công nhân in có nhiệm vụ in tài liệu, làm giấy thuế thân và căn cước giả để các đồng chí đi hoạt động. Cô Điền bán sợi dây chuyền 2 chỉ vàng để mở quán cơm làm địa điểm liên lạc vận động công nhân. Cô cũng thường chuyển tài liệu về Hà Nội, Hòn Gai. Bản thân cô còn phải lo tránh mặt người quen, sợ bị nghi ngờ vì đi tu chùa sao lại lang thang ở Hải Phòng, Quảng Ninh, làm sao tránh khỏi tù tội? Và rồi cô bị tù thật do bị một tên phản bội chỉ điểm. Cô bị thực dân Pháp bắt giam ở Sở cẩm Hải Phòng, sau giải về Sở mật thám Hà Nội. Đoạn đời hoạt động trước đây đã nhiều cơ cực thì đòn tù của Pháp còn kinh hãi hơn đến mức khó có thể tưởng tượng nổi! Nhưng cũng nhờ ở tù mà cô Điền được làm quen với các nhà cách mạng vừa bị bắt ở Thượng Hải về như Nguyễn Lương Bằng, Hồ Tùng Mậu, Đỗ Ngọc Du, ... Đồng chí Lê Duẩn cũng gặp ở trong lao và sau này đã có lần nói với con gái cụ Điền: “Mẹ cháu tốt lắm, ở trong tù mẹ cháu còn nhường cơm cho chú đấy!”.
Cuối năm 1931, cô gái Hà Nội 21 tuổi Trịnh Thị Điền đã quyết tuyệt thực một tuần liền để phản đối việc tra tấn dã man và ngược đãi phụ nữ, Sợ cô chết, Pháp phải đưa cô ra điều trị ở nhà thương Phủ Doãn và sau đó đã phải trả tự do cho cô sau 6 tháng giam giữ, chẳng khai được gì.
Ra tù, cô Trịnh Thị Điền lại tiếp tục liên lạc, tiếp tế cho các đồng chí bị tù và đã gửi 2 lưỡi cưa sắt bằng nửa ngoán tay út nhét trong đôi dép dừa để giúp các đồng chí Nguyễn Tạo, Nguyễn Lương Bằng cùng một số đồng chí khác vượt ngục tại nhà thương Phủ Doãn trong đêm Noel 1931. Trong phong trào Mặt trận Bình dân 1936-1939, cô Điền đã tích cực tham gia vận động phụ nữ đấu tranh công khai, vận động bầu người của Đảng vào Viện Dân biểu, vận động ủng hộ tài chính để in báo Lao động.
Cùng thời gian này, ông Đỗ Đình Thiện bị bắt tại Pháp, phải ngồi tù một thời gian, sau đó bị trục xuất về nước. Bị quản thúc chặt chẽ, nhà cửa thường xuyên bị khám xét, ông bà Đỗ Đình Thiện trở về với công việc đời thường, mở hiệu buôn bán tơ lụa rồi tậu đất, dựng nhà máy, đồn điền. Đến đầu những năm 40 thì ông bà Thiện đã được giới tư sản Hà Nội biết tiếng và kính nể. Ông bà Thiện còn sẵn sàng nhận một số bạn vừa ở tù ra vào làm việc như Vũ Đình Huỳnh làm ở tiệm buôn, Nguyễn Tuấn Thức và Lê Văn Hiền làm ở đồn điền Chinê (Cổ Nghĩa, Hòa Bình). Đây là một đồn điền cà phê lớn ở Chinê, mua lại của một chủ người Pháp năm 1943 với giá 2.000 lượng vàng. Việc nhận các đồng chí vào làm việc, trước hết là để anh em có việc làm, sau là để tiện liên lạc với cách mạng.
Năm 1943, ông Nguyễn Lương Bằng vượt ngục Sơn La, đóng vai một người buôn tơ đến tìm ông Thiện tại 54 Hàng Gai. Ông Bằng cho biết Đảng đang rất khó khăn về tài chính. Bà Điền lên gác mở tủ đưa ông Bằng 3 vạn đồng Đông Dương. Năm 1972, trong một lần tiếp bà Điền tại nhà riêng, đồng chí Trường Chinh có nói: “Khi chúng tôi nhận được số tiền 3 vạn đồng Đông Dương chị gửi cho qua anh Nguyễn Lương Bằng, quĩ Đảng chỉ còn 24 đồng”. Đầu năm 1945, ông bà Thiện lại nhờ ông Vũ Đình Huỳnh chuyển tới ông Nguyễn Lương Bằng 10 vạn đồng Đông Dương nữa. Ông Nguyễn Tạo cũng ghi nhận “Cuối tháng 12/1932, tôi vượt ngục ở Hỏa Lò. Đồng chí Trịnh Thị Điền lại liên lạc với đồng chí Nguyễn Thụy Nhân giúp đỡ tôi. Năm 1943, tôi vượt ngục Ban Mê Thuột ra tới Hà Nội, đồng chí Trịnh Thị Điền lại liên lạc, cho tôi 2 vạn đồng Đông Dương để tổ chức hoạt động cách mạng.”
Cách mạng Tháng Tám thành công, nhà riêng ông bà Thiện ở 54 Hàng Gai trở thành “nhà khách” của Chính phủ. Các phái đoàn Nam bộ, Phụ nữ Nam bộ, ... đều đã qua đây nghỉ ngơi, ăn uống, may quần áo. Bác cũng đã mời cơm cụ Huỳnh Thúc Kháng tại đây. Bà Điền còn được giao tổ chức tiệc ở phố Nguyễn Du để Bác tiếp các tướng Tiêu Văn, Lư Hán. Ông Thiện khi ấy được cử phụ trách “Quĩ độc lập” trung ương và đã góp vào quĩ này 10 vạn đồng Đông Dương (trị giá 4kg vàng). Trong tuần lễ vàng, ông bà Thiện lại ủng hộ 4kg nữa.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông với tư cách là phó chủ tịch Ủy ban kháng chiến khu Hoàn Kiếm, bà phụ trách tiếp tế cứu thương, đã cùng tự vệ thành chiến đấu bảo vệ thủ đô trong 10 ngày đêm, sau đưa hơn 300 cán bộ, nhân dân bí mật theo đường Chèm rút ra vùng tự do. Những ngày đầu kháng chiến, đồn điền Chinê của ông bà Đỗ Đình Thiện trở thành “binh trạm” của Việt Minh, là nơi qua lại, dừng chân của nhiều cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước trên đường lên chiến khu Việt Bắc, là nơi dưỡng sức của nhiều đoàn quân trước khi ra mặt trận. Bác Hồ cũng đã qua lại nơi đây nhiều lần. Vụ lúa thu 1946-1947, ông bà Thiện đã ủng hộ Vệ quốc đoàn Chiến khu Hai khoảng 200 tấn thóc. Trong thư đề ngày 21/1/1947, khu trưởng Hoàng Sâm và chính trị viên Lê Hiến Mai gửi ông Đỗ Đình Thiện đã viết “Toàn thể bộ đội Khu Hai rất cảm động được Ngài ủng hộ vụ lúa thu trong quí đồn điền năm 1946 và 1947. Vậy nhân danh Bộ chỉ huy tối cao chiến Khu Hai, chúng tôi xin thay mặt toàn thể bộ đội trân trọng gửi Ngài lời cảm ơn. Với lòng tha thiết của Ngài trong công cuộc kháng chiến hiện nay, toàn thể bộ đội Khu Hai xin hứa luôn luôn nỗ lực chiến đấu, quyết hợp lực cùng toàn dân phá tan kế hoạch mùa đông của địch, để xứng với nhiệt tình Ngài đã giành cho”[1].
Giữa năm 1946, ông Đỗ Đình Thiện, trong cương vị thư ký riêng, đã tháp tùng Bác trong chuyến ngoại giao đầu tiên của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tại sân bay Gia Lâm, khi máy bay cất cánh, mẹ ông đã không cầm được nước mắt, có lẽ vì cụ hiểu rõ tầm quan trọng cũng như những nguy hiểm có thể đến trong chuyến đi này. Và trong thời gian ở Pháp, khi tháp tùng Bác đi thăm Nooc-măng-đi cùng với Sanh-tơ-ni, ông đã bị tai nạn ôtô rất nặng, nhưng may mắn thoát chết. Về vụ tai nạn này, một số tờ báo Pháp lúc bấy giờ đã đặt dấu hỏi: “Phải chăng đây là một vụ mưu sát trượt Chủ tịch Hồ Chí Minh?”.
Sau cách mạng Tháng Tám, theo yêu cầu của Bộ Tài chính, ông Đỗ Đình Thiện đã đứng tên và bỏ tiền ra mua lại nhà in Tô-panh của Pháp (vì người Pháp không chịu bán cho Chính phủ ta) và hiến cho Chính phủ ta để lập nhà in tiền. Trước âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa của giặc Pháp, để bảo vệ an toàn cho việc in tiền, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra lệnh tháo dỡ, vận chuyển toàn bộ máy móc về tổ chức in tiền tại đồn điền Chinê. Ông bà Đỗ Đình Thiện đã dành một địa điểm thích hợp tại đó, đồng thời cho mượn nhà xưởng, máy điện, nước của đồn điền Chinê để đặt nhà máy in tiền đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do ông Phạm Quang Chức phụ trách. Tại đây, tờ giấy bạc “con trâu xanh” 100 đồng ra đời [1].
Ngày 22/2/1947, Bác Hồ về thăm nhà máy tại Chinê. Sau khi thăm nơi sản xuất, chỗ ăn ở của công nhân, Bác căn dặn “Người công nhân là người cách mạng nhất, các chú là người công nhân phải sống và làm việc gương mẫu, các chú phải giữ gìn phẩm chất của người cách mạng. Hiện nay kẻ thù của ta đang tìm các cơ sở kháng chiến như nhà máy này để đánh phá. Các chú phải giữ gìn bí mật. Trong lao động các chú phải đoàn kết thương yêu nhau” [2].
Đánh hơi thấy sự di chuyển của ta, quân Pháp ra sức lùng sục. Ngày 22/2/1947, 8 máy bay khu trục Pháp chia làm 2 tốp quần đảo, oanh tạc đồn điền Chinê. Tám quả bom đã rơi đúng vào khu vực kho cà phê, lửa cháy suốt ba tháng ròng không dập tắt nổi, nhưng toàn bộ máy móc in được để trong một hang đá trong khu vực đồn điền thì vẫn an toàn. Nhận được tin, Bác Hồ đã gửi thiếp thăm hỏi: “Chú thím Thiện, được tin chú thím, nhà Hiền** và các cháu đều bình an, tôi rất vui lòng. Mất của cải, không sợ (còn trời, còn nước, còn non, thì còn của cải bà con họ Hồ), kháng chiến thành công ta làm ra của khác, chắc chắn hơn. Chúc các chú thím mạnh khỏe. Hôn các cháu. Chào thân ái và quyết thắng” [1].
Sau trận bom đó, ông bà Đỗ Đình Thiện đưa cả gia đình gồm mẹ già và 4 con (nhỏ nhất 4 tuổi và lớn nhất mới 12 tuổi) lên Việt Bắc, theo đuổi cuộc kháng chiến 9 năm. Ông Đỗ Đình Thiện cũng đeo ba lô, cùng trèo đèo, lội suối cùng anh em công nhân để xây dựng nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, nhà máy cơ khí đầu tiên tại chiến khu Việt Bắc. Ông bà cũng đóng góp gần nửa cổ phần để xây dựng Việt Nam công thương Ngân hàng (tiền thân của Ngân hàng quốc gia Việt Nam).
Cụ Điền khi kể về người chồng đã khuất của mình (ông mất ngày 1/1/1972, thọ 69 tuổi) đã nói “Ông tôi làm giám đốc nhưng không hưởng lương. Ông bảo hưởng lương khó làm việc lắm, không lương dễ nói hơn. Trong kháng chiến ông tôi không nhận lương, hòa bình rồi, làm ủy viên trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng không có lương. Cho đến lúc ốm, vào nằm ở bệnh viện Việt Xô, bệnh viện lúng túng chả biết xếp vào tiêu chuẩn nào...”. Suốt cả thời bao cấp, cụ Thiện chỉ hưởng bìa “N”, thứ tem phiếu dành cho dân thường, mỗi tháng được mua một lạng đường và một lạng thịt”[3].
Đã nhiều năm trôi qua, nhưng tấm lòng cao cả, tận trung với Tổ quốc, với dân tộc của ông bà Đỗ Đình Thiện vẫn luôn còn đó. Một người bạn đã khấn trước vong linh ông rằng: “Giàu không bỏ bạn, nghèo không bỏ bạn. Gian nan vẫn thủy chung với bạn! suốt một đời chúng tôi theo học cái nghĩa tình trước sau như nhất của Anh”[3].
---
1)    Viện Bảo tàng Cách mạng.
2)    Gia đình ông Đỗ Long Vân
3)    (1)-Đặc san Công an nhân dân; (2)-Tư liệu của nhà in Ngân hàng; (3)-Báo Quân đội nhân dân số 12010, ngày 24/1/1995.
** Vừa là bạn, vừa là người cộng sự của ông bà Thiện.

Thứ Tư, 9 tháng 2, 2011

MỘT NHÀ TƯ SẢN TÂM PHÚC

Cao Lan Anh 
(Thời báo ngân hàng số 46, 9-15/11/1995)

LTS: Không ai có thể quên được công lao của các nhân sĩ, các nhà tư sản yêu nước đã hiến trọn cả đời mình, cả tài sản cho cách mạng. Lịch sử ngành in mãi mãi ghi nhận cống hiến của các nhà tư sản Đỗ Đình Thiện - Trịnh Thị Điền; Trịnh Văn Bô – Hoàng Thị Minh Hồ; Ngô Tử Hạ, những người “xây nền, đắp móng” cho Nhà in Ngân hàng (tiền thân là Cơ quan ấn loát in tiền Bộ Tài chính).
          Hồi ấy, căn nhà số 54 – Hàng Gai có hiệu Cát Lợi vốn là cửa hàng bán tơ lụa nổi tiếng của gia đình nhà tư sản Đỗ Đình Thiện, ở đất Hà Thành. Không ngờ trong những ngày đầu của chính quyền cách mạng non trẻ, nơi đây trở thành chỗ qua lại tin cẩn của các vị lãnh tụ. Cụ Trịnh Thị Điền (tức cụ bà Đỗ Đình Thiện) kể lại: Vào một ngày cuối thu năm 1945, lần đầu tiên bà được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hôm đó Người cùng Bác Cả (tức ông Nguyễn Lương Bằng) tới thăm. Sau lời giới thiệu của Bác Cả, Người cười thân mật, hỏi thăm chuyện gia đình, chuyện làm ăn như đã quen biết từ lâu. Người còn biết, bà có tiệm buôn tơ lụa ở Hà Nội, nhà máy dệt ở Gia Lâm, cả đồn điền cà phê lớn ở Chinê (Hòa Bình) mua lại của một chủ người Pháp năm 1943 với giá 2.000 lượng vàng.
Sau đó không lâu, tháng 5-1946 Bác Cả lại đến 54 Hàng Gai thông báo: Hồ Chủ tịch muốn mời ông Đỗ Đình Thiện tháp tùng Ngày đi Pháp dự Hội nghị Phông-ten-nơ-bơ-lô với tư cách là thư ký riêng. Bác Cả có nói với ông Thiện: “Nếu anh tìm được người đủ tin cậy thay anh thì anh có thể ở lại”. Và thế là ông Đỗ Đình Thiện nhận lời.
Không phải đến lúc này ông Đỗ Đình Thiện và bà Trịnh Thị Điền, những nhân sĩ yêu nước, những nhà tư sản dân tộc mới biết đến cách mạng mà từ những năm 30-31 cả hai cụ đã tham gia hoạt động bí mật. Cụ bà kể lại: năm 1930 theo yêu cầu của tổ chức (bà Nguyễn Thị Minh Khai và bà Phụ), bà xuống Hải Phòng hoạt động để gay dựng cơ sở. Đến năm 1931, bà bị địch bắt, giam chung với các ông Nguyễn Lương Bằng, Hồ Tùng Mậu, Đỗ Ngọc Du, Lê Duẩn ...
Cách mạng tháng Tám thành công, căn nhà 54 Hàng Gai thành “nhà khách” của Chính phủ, các phái đoàn Nam Bộ, Phụ nữ Nam Bộ... đều đã qua đây. Lúc này ông Đỗ Đình Thiện được cử phụ trách “Quỹ độc lập” trung ương. Ông đã đóng góp vào quỹ này mười vạn đồng tiền Đông Dương (trị giá 4kg vàng). Sau đó, trong “Tuần lễ vàng” ông bà Thiện lại ủng hộ 4kg nữa. Những đóng góp cụ thể cho nền tài chính cách mạng, cho sự nghiệp in tiền Chính phủ và cho ngành Ngân hàng của ông bà Thiện được bắt đầu từ đây.
Ngoài việc cùng với các nhà tư sản Trịnh Văn Bô và các nhân sỹ khác xây dựng Việt Nam công thương Ngân hàng (tiền thân của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam) – ông bà Thiện đã tham gia gần nửa cổ phần – theo đề nghị của ông Nguyễn Lương Bằng, ông bà Thiện đã đứng tên mua lại nhà in Tô Panh làm cơ sở in bạc cho Cơ quan ấn loát Bộ Tài chính. Khi đó chỉ có nhà in Tô Panh mới có hệ thống máy móc từ máy chụp ảnh, hệ thống máy đánh kẽm, buồng phơi, máy in thử và máy ốp sét... và máy li-nô-típ đúc chữ, số, khuôn bạc để in trên máy Vich-tô-ria và elby. Sau khi mua được nhà máy, Chính phủ đã cho di chuyển toàn bộ máy móc thiết bị lên đồn điền Đỗ Đình Thiện ở Chinê (Cỗ Nghĩa, huyện Lạc Thủy – Hòa Bình).
Đánh hơi thấy sự di chuyển của ta, quân Pháp ra sức lùng sục, hòng phá hoại cơ đồ cách mạng. Ngày 22-2-1947, tám máy bay khu trục Pháp chia làm hai tốp quần đảo, oanh tạc đồn điền Đỗ Đình Thiện (rộng 9km, dài 13km). Tám quả bom đã rơi đúng vào khu vực kho cà phê, lửa cháy ngút trời suốt ba tháng ròng không dập tắt nổi. May thay, toàn bộ máy móc in được để trong một hang đá (trong khu vực đồn điền) vẫn an toàn. Nhận được tin này, Hồ Chủ tịch đã gửi một tấm thiếp thăm hỏi: “Chú thím Thiện. Được tin chú thím, nhà Hiền (là bạn, đồng thời là người giúp việc cho ông bà Thiện – TG) và các cháu đều bình an, tôi rất vui lòng. Mất của cải, không sợ (Còn trời, còn nước, còn non, thì còn của cải bà con họ Hồ) kháng chiến thành công, ta làm ra của khác, chắc chắn hơn. Chúc các chú thím mạnh khỏe. Hôn các cháu. Chào thân ái và quyết thắng”.
Sau trận càn đó, cả gia đình ông bà Đỗ Đình Thiện cùng anh em công nhân lại ba lô trên vai, trèo đèo lội suối, đưa máy móc lên vùng tự do Chiêm Hóa (Tuyên Quang) xây dựng nhà in, để lại đồn điền với hàng ngàn gốc cà phê, hàng ngàn gia súc cho chính quyền địa phương và các đơn vị bộ đội quản lý.
Đã 50 năm trôi qua, kể từ ngày Cơ sở in ấn loát Bộ Tài chính được thành lập, đến nay Nhà in Ngân hàng đã trưởng thành, nhưng tấm lòng cao cả vì nghĩa lớn của ông bà Đỗ Đình Thiện vẫn là tấm gương sáng không bao giờ bị phai mờ về một lòng tận trung với nước với dân tộc. Ông Đỗ Đình Thiện đã qua đời ở tuổi 69 (năm 1972), ông không được cùng bà (bà Trịnh Thị Điền năm nay 84 tuổi đang bị bệnh nặng) chứng kiến ngày thăng hoa của cách mạng trên con đường đổi mới. Nhưng những tư tưởng và việc làm của “nhà tư sản của cách mạng” Đỗ Đình Thiện thật xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng của nhân dân, như lời khấn của một người bạn hữu trước vong linh ông: “Giàu không bỏ bạn, nghèo không bỏ bạn. Gian nan vẫn thủy chung với bạn! Suốt một đời chúng tôi theo học cái nghĩa tình trước sau như nhất của Anh”.
Hà Nội 11-1995

Thứ Ba, 8 tháng 2, 2011

CÁCH MẠNG VIỆT NAM CÓ NHỮNG NGƯỜI NHƯ THẾ


Khuất Biên Hòa
(Phụ nữ Việt Nam, 31-8-1995)

Trên đời này, có những sự việc chỉ cần thoáng qua đã có thể hiểu được, khẳng định được nó là thế nào. Nhưng cũng có nhiều hiện tượng, nhiều con người mà nếu chỉ dùng một “cặp kính” quen thuộc, một hệ quy chiếu giản đơn thì khó có thể lý giải nổi. Cuộc đời ông bà Đỗ Đình Thiện là một trường hợp như thế. Nếu đứng trên quan điểm cách mạng thì ông Đỗ Đình Thiện và bà Trịnh Thị Điền, vợ ông, đều là đảng viên cộng sản. Ông Thiện tham gia Đảng Cộng sản Pháp từ trước năm 1930, còn bà Điền là một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương. Cả hai người đều đã từng bị tù đế quốc. Nhưng nếu nhìn từ góc độ kinh tế thì ông bà Thiện lại là nhà tư sản, tư sản “cỡ bự” của Hà Nội thời thuộc Pháp. Chỉ có điều, khác với nhiều nhà tư sản cùng thời, ông bà Thiện làm giàu không chỉ vì lợi ích riêng mà còn phụng sự cho sự nghiệp chung của dân tộc, đặc biệt trong những lúc cách mạng gặp nhiều khó khăn. Sự cống hiến của ông bà Thiện cho cách mạng thật to lớn, cuộc đời ông bà phong phú, trong sáng và đẹp như một cuốn tiểu thuyết hoàn chỉnh. Bởi vậy một trang báo nhỏ này không thể nói hết được. Nhưng trong không khí cả nước tưng bừng và trang trọng kỷ niệm 50 năm Cách mạng tháng Tám lịch sử, với tinh thần tìn về cội nguồn, trân trọng quá khứ, người viết bài này chỉ xin phác họa đôi nét để bạn đọc tham khảo.
Ngày 30 tháng 5 năm 1946, tại trường bay Gia Lâm diễn ra một cuộc tiễn đưa với nghi thức trọng thể, nhưng bao trùm một bầu không khí chính trị căng thẳng. Đó là cuộc tiễn Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đi thăm nước Pháp với tư cách “thượng khách” của Chính phủ Pháp, và tiễn phái đoàn Chính phủ Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi dự cuộc đàm phán Việt – Pháp tại Paris. Tháp tùng Hồ Chủ tịch trong chuyến đi ngoại giao đầu tiên của Người nhằm cứu vãn hòa bình ở Việt Nam có ông Đỗ Đình Thiện, thư ký riêng của Chủ tịch, và một đại tá cận vệ. Chẳng hiểu người Pháp nghĩ gì khi thấy ông Đỗ Đình Thiện lại xuất hiện trên đất Pháp, người mà hai mươi năm về trước, khi còn là sinh viên năm thứ ba Đại học Khoa học, đã hiên ngang tự bào chữa trước toàn án Toulouse về những “hành vi chống đối chính phủ Pháp” ngay tại “chính quốc”, và đã bị người Pháp bỏ tù và trục xuất về nước?!
Ông Đỗ Đình Thiện là con út trong một gia đình viên chức ở Hà Nội. Ông mồ côi cha khi mới tròn 5 tháng. Mẹ ông ở vậy năm ba mươi tuổi tần tảo nuôi con. Hai anh ông Thiện là kỹ sư hỏa xa và kỹ sư công chính. Hồi nhỏ ông Thiện học trường Hàng Vôi. Sau khi bị đuổi học vì tham gia phong trào để tang cụ Phan Chu Trinh, ông đổi khai sinh xuống Nam Định học tiếp. Ông Thiện có ý muốn du ngoại từ sớm. Mẹ ông không muốn xa con nên “bày kế” hỏi vợ để “giữ chân”. Do mai mối, ông Thiện làm quen với cô gái 16 tuổi Trịnh Thị Điền, và hai người có cảm tình với nhau ngay từ lần gặp đầu tiên. Lễ ăn hỏi được tổ chức, nhưng rồi ông Thiện vẫn quyết chí ra đi, để lại nơi quê nhà người mẹ muôn vàn thương yêu và người vợ trẻ chưa cưới. Đó là vào năm 1927, ông Thiện bước sang tuổi 24.
Tại Pháp, người thanh niên giàu nhiệt huyết Đỗ Đình Thiện có điều kiện tiếp xúc với những trào lưu tư tưởng khác nhau. Anh sớm nhận ra sự khác biệt giữa lý tưởng cao đẹp Tự do – Bình đẳng – Bác ái với chế độ thuộc địa mà người Pháp thiết lập ở Việt Nam. Ngoài học tập, anh hăng hái tham gia các sinh hoạt chính trị như diễn thuyết, mít tinh, biểu tình. Rồi anh gia nhập đảng Cộng sản Pháp, vận động cho sự nghiệp giành độc lập và giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Anh đã được Đảng Cộng sản Pháp cử sang Matxcơva một thời gian, và tại trường Phương Đông anh đã gặp Lê Hồng Phong, Bùi Công Trừng ... Trong những lần tham gia biểu tình, anh Thiện được các đồng chí Pháp bảo vệ rất cẩn thận, họ nói: “Nếu chúng tôi bị bắt thì tù nhẹ thôi, còn với anh thì sẽ nặng hơn nhiều”.
Ở trong nước, cô gái Hà Nội Trịnh Thị Điền, qua giới thiệu của người em họ là ông Ngô Đình  Mẫn, bắt đầu tham gia hoạt động ở chi bộ Phố Huế của Đảng Tân Việt, trong đó có các ông Nguyễn Tạo, Nguyễn Tuấn Thức ... Đầu năm 1930, sau khi ba đảng hợp nhất thành Đảng Cộng sản Đông Dương, chị Minh Khai và chị Phụ đến nhà riêng cô Điền ở 41 Hàng Mắm gợi ý cô thoát ly xuống hoạt động ở Hải Phòng vì Đảng chủ trương tăng cường xây dựng cơ sở trong công nhân. Thế là cô Điền quyết định ra đi nhận nhiệm vụ. Mồ côi cha mẹ từ năm bốn tuổi, từ bé cô Điền sống với người anh cùng cha khác mẹ. Trước khi đi, cô để lại cho anh một lá thư ý nói chán đời bỏ đi tu. Anh cô rất thương em, tưởng đó là sự thật nên đã cho in ảnh cô nhờ cảnh sát tìm kiếm.
Xuống Hải Phòng, tới địa điểm đã hẹn ở đường Cầu Đất, cô Điền bắt liên lạc với ông Nguyễn Tạo, người cùng hoạt động trong chị bộ phố Huế trước đây. Nhóm cô có nhiệm vụ in tài liệu, làm giấy thuế thân và căn cước giả để các đồng chí mình đi hoạt động. Mang theo sợi dây chuyền hai chỉ vàng, cô bán đi lấy tiền mở quán cơm làm địa điểm liên lạc và vận động công nhân. Về tài chính, lúc bấy giờ eo hẹp lắm, một mình ông Dựt đi làm công chức nuôi cả nhóm hoạt động. Những chuyến chuyển tài liệu, vũ khí về Hà Nội hoặc ra Hòn Gai cô Điền sợ nhất là bị người quen “phát hiện”. Đi trên tầu biển cô thường đứng ở mép tầu để phòng có động tĩnh gì thì liệng tài liệu, vũ khí xuống biển phi tang. Cẩn trọng vậy mà rồi cô cũng bị bắt vì có phản bội chỉ điểm. Thế là cô “nếm đủ đòn tù” từ Sở cẩm Hải Phòng đến nhà lao Sở mật thám Hà Nội. Nhưng cũng chính tại đây cô đã có dịp làm quen với các nhà cáh mạng Nguyễn Lương Bằng, Hồ Tùng Mậu, Đỗ Ngọc Du ... vừa bị bắt từ Thượng Hải về, và quen biết đồng chí Lê Duẩn ở trong lao. Sau này đồng chí Lê Duẩn còn nhắc lại với con bà Điền: “Mẹ cháu tốt lắm! trong tù, khi chú bị đánh đập tra tấn mẹ cháu đã tận tình chăm sóc, còn giặt quần áo cho chú nữa!”. Cuối năm 1931, cô gái 20 tuổi Trịnh Thị Điền (người mang số tù 168834) đã kiên quyết tuyệt thực một tuần liền để phản đối việc tra tấn dã man và ngược đãi đối với tù nhân nữ. Họ phải đưa cô ra nhà thương Phủ Doãn điều dưỡng, và sau đó, vì không đủ bằng cớ để kết án, phải trả tự do cho cô. Khi cô Điền nằm điều trị ở nhà thương Phủ Doãn, các ông Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Tạo ... cũng bị giam trong khu tù của bệnh viện. Khi được tha, cô Điền đã tìm cách gửi vào hai lưỡi cưa sắt để giúp nhóm này vượt ngục vào đêm Noel 1931.
Cùng khoảng thời gian ấy, ông Thiện bị cảnh sát Pháp bắt tại ga xe lửa Toulouse trong khi mang truyền đơn phát cho binh lính Việt Nam mãn hạn trên đường về nước. Ông Thiện bị tòa án Toulouse xử bốn tháng tù giam và trục xuất về nước.
Ra tù, ông bà Thiện vẫn bị quản thúc chặt chẽ, nhà cửa bị kiểm soát gắt gao, nhất là những ngày lễ như 1 tháng 5. Tuy được đoàn tụ,  trong lòng cặp vợ chồng trẻ mới cưới vẫn không nguôi tinh thần cách mạng, chỉ có điều bây giờ họ phải tìm ra cách hoạt động riêng phù hợp với hoàn cảnh của mình. Quá trình tham gia hoạt động khiến ông bà Thiện hiểu rằng chỉ có tinh thần chưa đủ, Đảng cũng cần có tiền để tổ chức hoạt động cách mạng: “Một thế lực vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng một lực lượng vật chất”. Với ý nghĩ đó ông bà Thiện trở về với công việc làm ăn đời thường. Trong thời kỳ Mặt trận bình dân 1936 – 1939 ông bà Thiện đã ủng hộ tiền và hoạt động cho báo Le Travail, tham gia vận động bầu người của Đảng vào Viện dân biểu. Đến đầu những năm 40 thì ông bà Thiện đã được giới tư sản Hà Nội biết tiếng và kính nể. Có lẽ không chỉ vì khả năng giao tiếp và nhậy bén trong kinh doanh, cũng không chỉ vì mới sau ít năm ông bà Thiện đã là chủ của một tài sản lớn (tiệm buôn tơ ở Hàng Gai, nhà máy dệt ở Gia Lâm, và đồn điền cà phê ở Chinê rộng 9km, dài 13km, trị giá tới hai ngàn lượng vàng ...), mà chủ yếu là vì cái tâm và tấm lòng hào hiệp “rất người” của hai nhà tư sản trẻ tuổi này: họ giúp đỡ bạn bè, đồng chí thật tận tình và vô tư.
Vượt ngục Sơn La năm 1943, ông Nguyễn Lương Bằng đóng giả một người buôn tơ đến nhà riêng ông bà Thiện ở 54 Hàng Gai. Được ông Bằng cho biết Đảng đang rất khó khăn về tài chính để tổ chức hoạt động, bà Thiện đã đưa ông Bằng ba vạn đồng Đong Dương để góp phần vào quỹ Đảng. Nhắc lại sự kiện trên, đồng chí Trường Chinh nói: “Khi nhận được ba vạn đồng Đông Dương chị gửi cho qua anh Nguyễn Lương Bằng, quỹ Đảng chỉ còn hai mươi bốn đồng”. Ông Nguyễn Tạo viết: “Cuối tháng 12-1932 tôi vượt ngục Hỏa Lò, đồng chí Trịnh Thị Điền liên lạc với đồng chí Nguyễn Thụy Nhâm giúp đỡ tôi. Năm 1943 tôi vượt ngục Ban Mê Thuột ra tới Hà Nội, đồng chí Trịnh Thị Điền lại liên lạc, cho tôi hai vạn đồng Đông Dương để tổ chức hoạt động cách mạng”. Đầu năm 1945 ông bà Thiện lại chuyển đến ông Nguyễn Lương Bằng mười vạn đồng Đông Dương nữa.
Lần đầu gặp Bác vào một ngày thu năm ấy (do ông Nguyễn Lương Bằng giới thiệu) mãi mãi là một kỷ niệm đẹp trong cuộc đời ông bà Thiện. Sự giản dị, thân mật và sức hấp dẫn của Bác đã nhanh chóng cảm hóa ông bà, và cũng từ đấy gia đình ông bà trở thành chỗ thân thiết, tin cậy của Người.
Cách mạng tháng Tám thành công, nhà riêng ông bà Thiện ở 54 Hàng Gai đã biến thành một “nhà khách Chính phủ”, lúc nào cũng nườm nượp khách. Khách từ Việt Bắc xuống, từ Nam Bộ ra, ăn uống, nghỉ ngơi, may mặc bằng vải do nhà máy Gia Lâm của nhà dệt. Bác cũng đã qua lại, tiếp khách và nghỉ tại đây. Được Bác giao làm tiệc ở 58 Nguyễn Du để Bác tiếp các tướng Tiêu Văn và Lư Hán bà Thiện đã lo rất chu tất. Bà Lê Thị Thanh(*) (người được phân công chăm lo sinh hoạt cho Bác) vẫn còn nhớ rằng bộ ka-ki Bác mặc hôm đọc tuyên ngôn Độc lập là do bà Thiện may cho Bác.
Buổi đầu xây dựng, nhà nước non trẻ còn nhiều khó khăn, Quỹ Độc Lập được lập ra để kêu gọi nhân dân đóng góp tiền của cho Chính phủ. Ông Thiện được cử phụ trách Quỹ Độc Lập trung ương (Quyết định bổ nhiệm nay trưng bày trong Bảo tàng Hồ Chí Minh). Bản thân ông bà Thiện đã ủng hộ quỹ này mười vạn đồng Đông Dương (trị giá khoảng 4kg vàng). Trong tuần lễ vàng do Bác Hồ phát động, ông bà Thiện lại đóng góp 4kg vàng nữa. Một tờ báo thời ấy đã đăng mẩu tin sau đây: “Ngày 7-10-1931, một sinh viên tòng học năm thứ ba Đại học khoa học ở Toulouse bị bắt ở ga Mâtblan vì tặng bánh mì có truyền đơn nhét vào trong ruột cho binh lính Việt Nam mãn hạn lên tàu về nước. Truyền đơn này xúi giục binh lính khi trở về nước thì bất tuân thượng lệnh và hưởng ứng phong trào cách mạng. Ngày 19-11 năm đó, sinh viên ấy bị tòa án Toulouse phạt bốn tháng tù, sau khi nhận hoàn toàn trách nhiệm về việc mình làm, nhưng không chịu khai ai là đồng phạm. Sinh viên ấy, một đảng viên cộng sản, tên là Đỗ Đình Thiện, người mà ai nấy đều biết tiếng về Tuần lễ vàng vừa rồi”. Bà Lê Thị Thanh thường nói: “Bà Thiện vận động quần chúng rất giỏi. Trong Tuần lễ vàng, Bà vận động được nhiều nhà giàu đóng góp cho Chính phủ ...”. Bà Thiện là một trong những sáng lập viên của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam: cùng với bà Lê Thị Xuyến và bà Thục Viên, bà Thiện được Bác Hồ giao nhiệm vụ vận động thành lập Hội (Bà Thiện là ủy viên trung ương Hội từ khi thành lập đến năm 1955). Có một lần, để biểu thị niềm tin yêu của nhân dân đối với lãnh tụ, thành phố Hà Nội tổ chức bán đấu giá bức chân dung Bác Hồ của họa sỹ Nguyễn Sáng. Ông Đỗ Đình Thiện đã trả giá cao nhất, và ngay sau đó tuyên bố tặng bức tranh này cho UBHC thành phố. Thế là cuộc bán đấu giá biến thành một đám rước chân dung Hồ Chủ tịch về treo tại Trụ sở Ủy ban.
Cuộc đàm phán Việt – Pháp tại Fontainebleau không đạt được kết quả. Phái đoàn Việt Nam về nước. Bác lưu lại Paris thêm một thời gian để tiếp tục vận động cho hòa bình ở Việt Nam. Cuốn nhật ký làm việc của Bác do ông Đỗ Đình Thiện ghi, nay lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng, cho thấy trong thời gian này Bác đã có rất nhiều cuộc tiếp xúc với đại sứ các nước lớn, các danh nhân văn hóa, các nhà khoa học ... để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của họ. Và cuối cùng, để “kéo dài” những ngày hòa bình quý báu nhằm có thêm thời gian chuẩn bị, Bác đã ký với Pháp bản Tạm ước 14-9-1946.
Tình hình trong nước ngày một xấu đi do những hành động khiêu khích của phía Pháp. Nhiều người bắt đầu lo lắng vì có tờ báo gợi ý thô bạo: “Cách tốt nhất để giải quyết vấn đề Việt Nam là: nhân dịp Chủ tịch Hồ Chí Minh đang có mặt ở Pháp, chúng ta hãy giữ Người ở lại đây!”. Ngày 20-10-1946, chiếc Thông báo hạm Dumont d’Urville, với đoàn thủy thủ người Pháp gồm 150 sĩ quan và lính thủy, đưa Bác về đến cảng Hải Phòng. Cùng về với Bác, ngoài hai tùy tùng của Người là ông Đỗ Đình Thiện và Đại tá cận vệ, còn có bốn trí thức Việt kiều là các ông kỹ sư Phạm Quang Lễ (tức Trần Đại Nghĩa), kỹ sư Võ Quý Huân, kỹ sư Võ Đình Quỳnh và bác sỹ Trần Hữu Tước. Bác và mọi người trong đoàn về Hà Nội trước, ông Thiện còn ở lại Hải Phòng tiếp đoàn thủy thủ. Tới Hà Nội, Bác liền cho gọi bà Thiện lên gặp và bảo: “Bác đưa chú Thiện về trả cô nguyên vẹn đấy nhé!”. Chả là, trong thời gian ở Pháp, khi tháp tùng Bác đi thăm Normandie cùng với Sainteny, ông Thiện đã thoát chết trong một tai nạn ôtô rất nguye hiểm mà một số báo Pháp đã không giấu sự nghi ngờ của họ rằng đó là một “vụ mưu sát Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Bầu không khí Hà Nội mỗi ngày một thêm căng thẳng, chiến tranh có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Ông bà Thiện gửi bốn con nhỏ cho một người bạn ở Vân Đình và mua trữ trong nhà khá nhiều súng đạn và lựu đạn. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông Thiện, trong cương vị Phó chủ tịch Ủy ban kháng chiến Khu Hoàn Kiếm, và bà Thiện, phụ trách tiếp tế cứu thương, đã cùng tự vệ thành chiến đấu cầm cự với địch. Tại phố Hàng Gai, địch chiếm bên số lẻ, ta giữ bên số chẵn, cuộc đấu súng và giành giật thật quyết liệt! Sau mười ngày đêm chiến đấu, có liên lạc vào đón, ông Thiện tổ chức đưa hơn ba trăm người vượt qua gầm cầu Long Biên vào ban đêm, dưới ánh đèn pha canh chừng và những loạt đạn tiểu liên vu vơ của địch từ trên cầu, rút ra vùng tự do theo hướng Chèm. Trong giây phút hiểm nghèo, ông bà Thiện bảo nhau hãy “cố” sống lấy ít nhất một trong hai người để bọn trẻ khỏi bơ vơ. Trong lần gặp gần đây, Giáo sư Đỗ Long Vân, Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam, con trai ông bà Đỗ Đình Thiện, kể với tôi: “Đêm 19-12-1946, bốn chị em chúng tôi đứng trên bờ đê Vân Đình, nước mắt lưng tròng nhìn về bầu trời Hà Nội rực đỏ, lòng đầy lo lắng cho số phận của bố mẹ chúng tôi”.
... Những ngày đầu chín năm chống Pháp, đồn điền Chinê của ông bà Thiện trở thành “binh trạm” của kháng chiến. Bác và nhiều cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước thường qua lại, dừng chân nơi đây trên đường lên chiến khu Việt Bắc. Một buổi tối đã khuya, trên đường đi công tác, Bác ghé qua thăm gia đình ông bà Thiện. Trước lúc lên đường, Bác không quên dành cho “thằng bé con” Đỗ Long Vân của ông bà một cái hôn mặc dù cháu đã ngủ say. Đồn điền Chinê đã là nơi đặt nhà máy in tiền đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây cũng là nơi bồi dưỡng nhiều đoàn quân trên đường Nam tiến hoặc trước khi vào chiến dịch. Tôi lật xem cuốn an-bom kỷ niệm của gia đình, và dừng lại ở trang có bức “thư – công văn” đề ngày 21-1-1947 của Vệ quốc đoàn Chiến Khu Hai gửi ông Đỗ Đình Thiện. Bức thư viết: “Toàn thể bộ đội Khu Hai rất cảm động được Ngài ủng hộ vụ lúa thu trong quí đồn điền năm 1946 và 1947. Vậy nhân danh Bộ chỉ huy tối cao chiến Khu Hai, chúng tôi xin thay mặt toàn thể bộ đội trân trọng gửi Ngài lời cảm ơn. Với lòng tha thiết của Ngài trong công cuộc kháng chiến hiện nay, toàn thể bộ đội Khu Hai xin hứa luôn luôn nỗ lực chiến đấu, quyết hợp lực cùng toàn dân phá tan kế hoạch mùa đông của địch để xứng với nhiệt tình Ngài đã giành cho”. Cuối thư ký tên Khu trưởng Hoàng Sâm và Chính trị ủy viên Lê Hiến Mai. Riêng vụ lúa ấy ông bà Thiện đã ủng hộ bộ đội hai trăm tấn thóc. Thật ra, những chuyện ông bà Thiện ủng hộ việc này việc nọ thì nhiều lắm. Và nhiều việc ông bà làm mà không bao giờ nhắc tới nữa. Chỉ mãi sau này, những người có liên quan hoặc chứng kiến kể lại thì con cháu trong nhà mới được biết. Chẳng hạn, ông Đang kể rằng, những ngày mới giành chính quyền, ông được giao nhiệm vụ mở một lớp đào tạo khoảng ba trăm cán bộ thanh niên trong ba tháng nhưng không kiếm đâu ra tiền. Ông tìm đến trình bày với ông Thiện, và ông Thiện đã tài trợ cho cả khóa học này. Hoặc giả ông Thiện cũng đã ủng hộ tiền làm giải thưởng cho cuộc thi hội họa đầu tiên sau cách mạng mà trong đó họa sỹ Trần Văn Cẩn đoạt giải nhất ...
Ngày 22-2-1947, tám máy bay khu trục Pháp oanh tạc đồn điền Chinê. Tài sản của ông bà Thiện bị thiêu hủy nặng nề. Riêng kho cà phê trúng đạn lửa cháy âm ỷ suốt ba tháng không sao cứu chữa được. Biết tin này, Bác gửi tới ông bà Thiện tấm thiếp chia buồn như sau: “Chú thím Thiện. Được tin chú thím và các cháu đều bình an. Tôi rất vui lòng. Mất của cải, không sợ (Còn trời còn nước còn non, thì còn của cải bà con họ Hồ). Kháng chiến thành công, ta làm ra của khác, chắc chắn hơn. Chúc chú thím mạnh khỏe. Hôn các cháu. Chào thân ái và quyết thắng”.
Ít ngày sau đó, ông bà Thiện đưa cả gia đình lên Việt Bắc theo đuổi cuộc kháng chiến chín năm. Những năm kháng chiến gian khổ nhưng hào hùng ấy, hễ có dịp đi công tác qua là Bác lại ghé thăm gia đình ông bà Thiện. Thỉnh thoảng gia đình ông bà lại nhận được một “mẩu” thư xinh xinh của Bác như “Cảm ơn các cháu, Biếu Bác trứng rau. Bác chúc các cháu, Học hành tiến mau”, “Gởi chú thím Thiện. Cảm ơn chú thím đã gởi biếu một bộ quần áo rất đẹp, nhất là cái zì cũng tự tay mình làm lấy. Nghe nói các cháu thêu khéo, Bác gởi lời khen các cháu. Thân ái. 12/48. Bác”...
Đến hôm nay, ông Đỗ Đình Thiện đã đi với Bác Hồ về cõi Tiên được 23 năm rồi. Còn bà Thiện, tuy tuổi cao sức yếu, nhưng đôi mắt sáng và gương mặt vẫn toát lên vẻ đôn hậu, đoan trang của một người Hà Nội. Gia đình ông bà Thiện còn lưu giữ khá nhiều kỷ vật quý, bằng chứng của cuộc đời sống động của ông bà, gắn bó với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, với Bác Hồ kính yêu.
Tạm biệt gia đình, rời khỏi ngôi nhà 76 Nguyễn Du, bước ra đường phố sôi động của “thời kỳ mở cửa”, lòng tôi không nguôi xúc động khi nghĩ đến những cuộc đời, những con người đã gắn bó và cống hiến cho cách mạng thật lớn lao mà không mảy may kể công hoặc đòi hỏi hưởng thụ, vẫn vô tư, trong sáng đến tuyệt vời. Bất giác tôi chợt nghĩ: đành rằng, trong thời kỳ đổi mới của đất nước hôm nay, làm giàu và mưu cầu hạnh phúc là nguyện vọng chính đáng của mọi người, song giá như mỗi người đều làm giàu một cách chân chính bằng bàn tay khối óc của mình, đều biết kết hợp hài hòa giữa cái riêng với cái chung thì cuộc đời sẽ đẹp biết bao, đất nước sẽ tiến nhanh biết bao! Điều đó chắc hẳn có thể thực hiện được khi đã có những con người lớp trước như tấm gương trong.
Hà Nội 8/95


* Bà Lê Thị Thanh là người được Trung ương cử, đảm nhiệm việc nấu cơm và chăm sóc sức khỏe cho Bác Hồ suốt máy chục năm (từ ngày Bác về Pắc Bó đến khi Bác qua đời). Báo Phụ nữ Việt Nam số kỷ niệm 19-5-1995 đã có bài giới thiệu về bà Lê Thị Thanh của tác giả Khuất Biên Hòa.

Thứ Năm, 3 tháng 2, 2011

NGƯỜI CÒN LẠI VỚI THỜI GIAN phần 2

NGƯỜI CÒN LẠI VỚI THỜI GIAN phần 1

CỔ TÍCH KHÔNG DÀNH CHO TRẺ THƠ

                                                                     Minh Tâm
       (Quân đội nhân dân 12100-12101, 23-24/1/1995)

Nhân một việc có liên quan đến Hội Toán học Việt Nam, qua giới thiệu của một bạn đồng nghiệp, tôi tìm đến nhà riêng giáo sư, tiến sĩ Đỗ Long Vân - Chủ tịch Hội, ở số 76 Nguyễn Du, Hà Nội.
Phòng làm việc của giáo sư ở gác 2, bộn bề sách vở nhiều thứ tiếng. Tôi chú ý đến tấm ảnh nhỏ đã nhuốm màu thời gian lồng trong khung kính, đặt trang trọng cạnh lọ hoa trên bàn viết. Trong ảnh, bên bờ biển một miền xa lạ nào đó, Bác Hồ, trong bộ đại cán màu sáng, đứng đối diện là một người mặc com-lê hao hao giống chủ nhà. Thấy cái nhìn ngỡ ngàng của tôi, giáo sư giải thích: cụ ông thân sinh ra tôi đã có thời là thư ký của Bác. Ảnh chụp năm 1946 tại Pháp, trên bãi biển Biaritz.
-         Cụ còn khỏe không, thưa giáo sư? Tôi hỏi.
Giáo sư lắc đầu “bố tôi mất đã 21 năm nay rồi”! Tôi ngỏ ý muốn thắp hương cho cụ. Giáo sư dẫn tôi sang phòng bên, lễ phép nói với một cụ bà tuổi ngoại tám mươi đang đọc báo bên bàn nước.
-         Thưa mẹ, đây là anh bạn nhà báo, anh muốn thắp hương cho bố.
Cụ gật đầu tỏ vẻ cảm ơn rồi tự tay sửa sang bàn thờ, tự tay đốt nến giúp lễ. Dưới ánh nến lung linh, dòng chữ trên bức ảnh thờ hiện lên huyền ảo: Đỗ Đình Thiện 1904 – 1972.
Bữa ấy, trong gian phòng nồng ấm hương trầm, và tuần trà pha đúng cách người Hà Nội xưa, cụ Trịnh Thị Điền (tức cụ bà Đỗ Đình Thiện), theo đề nghị của tôi, đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:
... Bà Điền gặp Bác Hồ lần đầu tiên vào mùa thu năm 1945, lúc bà còn ở 54 phố Hàng Gai, Bác đang ở nơi làm việc cũ của tướng Mô-li-e, đối diện nhà Thủy Tọa. Sau lời giới thiệu của bác Cả (tức ông Nguyễn Lương Bằng), Bác cười thân mật “ờ, cô cũng còn trẻ đấy nhỉ”, rồi Bác hỏi thăm chuyện gia đình, chuyện làm ăn, như đã quen biết từ lâu. Chả là bà Điền lúc bấy giờ tuy mới 34 tuổi, nhưng đã làm ăn giàu có và khá nổi tiếng trong giới tư sản Hà Nội. Bà có tiệm buôn tơ lụa ở Hà Nội, nhà máy dệt ở Gia Lâm, và đồn điền cà phê lớn ở Chi-nê mua lại của một chủ người Pháp năm 1943 với giá 2000 lượng vàng. Có lẽ trong hình dung của Bác, một người như thế phải lớn tuổi hơn nhiều. Một ngày cuối tháng 5 năm 1946, ông Nguyễn Lương Bằng đến 54 Hàng Gai báo cho ông nhà tôi rằng, Bác muốn ông nhà tôi tháp tùng Bác đi Pháp. Sau vài phút suy nghĩ có vẻ lung lắm, ông nhà tôi hỏi lại với vẻ khiêm nhường:
- Tôi có thể không đi được không?
- Nếu anh tìm được người đủ tin cậy thay anh thì anh có thể ở lại – Ông Bằng trả lời.
Và thế là ông nhà tôi đành nhận lời.
Chỉ ít ngày sau, ông Đỗ Đình Thiện, trong cương vị thư ký riêng, và ông Vũ Đình Huỳnh trong cương vị đại tá cận vệ đã tháp tùng Bác trong chuyến ngoại giao đầu tiên của Chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng hòa, nhằm mục đích cứu vãn hòa bình ở Việt Nam, để rồi sau đó, khi hội nghị Phông-ten-nơ-bơ-lô bị bế tắc, đã ký tạm ước 14-9-1946. Tại sân bay Gia Lâm - cụ Điền kể tiếp, khi máy bay cất cánh, cụ bà thân sinh ra ông nhà tôi đã không cầm được nước mắt. Có lẽ, không phải bằng lý trí, mà là bằng linh cảm của một người mẹ, cụ hiểu rõ tầm quan trọng cũng như mối hiểm nguy có thể trong chuyến đi này của Bác. Và quả nhiên, trong thời gian ở Pháp, khi tháp tùng Bác đi thăm Noóc-măng-đi cùng với Sanh-tơ-ni, ông Thiện đã bị tai nạn ô tô rất nặng, nhưng may mắn thoát chết!

Đưa tin về vụ tai nạn này, một số tờ báo Pháp hồi bấy giờ đã đặt dấu hỏi: “Phải chăng đây là một vụ mưu sát trượt Chủ tịch Hồ Chí Minh?”. Nhưng rồi mọi việc cũng bị lãng quên đi, nhường chỗ cho những sự kiện lớn lao cấp bách hơn (vụ tai nạn này đã được tường thuật chi tiết trong tập nhật ký làm việc của Bác do ông Thiện ghi chép, nay lưu giữ tại Bảo tàng cách mạng).
Ngày 20-10-1946, Bác về đến Hải Phòng trên chiếc thông báo hạm Đuy-mông-đơ-vin-lơ có 150 sĩ quan, thủy thủ Pháp hộ tống. Cùng về với Bác, ngoài các ông Đỗ Đình Thiện và Vũ Đình Huỳnh còn có 4 trí thức Việt Kiều là kỹ sư Phạm Quang lễ (tức Trần Đại Nghĩa), kỹ sư Võ Quý Huân, kỹ sư Võ Đình Quỳnh và bác sĩ Trần Hữu Tước. Bác và các anh em khác về Hà Nội trước, ông nhà tôi được phân công ở lại Hải Phòng tiếp đoàn thủy thủ Pháp. Khi về đến Hà Nội, Bác cho gọi ngay tôi lên bảo “Bác đưa chú Thiện về trả cô nguyên vẹn đấy nhé”.
Cụ Điền ngừng lời, nhẹ bước về phía bàn thờ thay một tuần hương mới cho cụ ông. Giọng cụ chậm rãi, xa xăm:
-         Nhưng mà chuyện đi Pháp của ông nhà tôi với Bác còn có một duyên do dài lắm. Ông nhà tôi là con út trong một gia đình viên chức, mồ côi cha từ lúc 5 tháng. Mẹ chồng tôi ở vậy từ năm 30 tuổi, nuôi con ăn học. Anh cả ông Thiện là kỹ sư hỏa xa, anh thứ hai là kỹ sư công chính. Thời học sinh, ông Thiện học ở trường Hàng Vôi. Sau vì tham gia phong trào để tang cụ Phan Chu Trinh, bị đuổi học, phải “đổi khai sinh” xuống học ở Nam Định. Ông Thiện nuôi chí du ngoại từ rất sớm. Thương con út không muốn cho đi xa, bà cụ bèn nghĩ mẹo hỏi vợ để ... cầm chân ông nhà tôi. Đã coi mặt 3, 4 đám gì đó, nhưng ông Thiện không ưng. Sau nhờ anh em ông Cát Thành, Cát Tường, thành viên phong trào “Đông kinh nghĩa thục”, có quen biết với cả hai nhà giới thiệu, chúng tôi gặp nhau và ưng thuận. Thế là làm lễ ăn hỏi. Nhưng không vì thế mà ông Thiện thay đổi kế hoạch đi Pháp du học. Đó là vào năm 1927, tôi tròn 16 tuổi, ông Thiện bước sang tuổi 24.
Một ông bạn sau này kể lại rằng, ông đã chứng kiến mẩu đối thoại (bằng tiếng Pháp) sau đây giữa ông Đỗ Đình Thiện và ông Trịnh Đình Cửu, bạn học của ông Thiện, trước ngày ông Thiện lên đường du học.
-         Anh có bầu máu nóng không? – Ông Cửu hỏi.
-         Chừng nào tim tôi còn đạp thì máu tôi còn nóng – ông Thiện trả lời.
Ở Pháp, ông Thiện vừa học vừa tham gia hoạt động cách mạng, rồi vào Đảng Cộng sản Pháp. Đã có lúc ông đi học nghề thợ sơn để hưởng ứng chủ trương “vô sản hóa” ở trong nước. Còn tôi - cụ Điền tiếp, ở trong nước, qua giới thiệu của cậu em họ là Ngô Đình Mẫn, tôi bắt đầu tham gia hoạt động ở chi bộ phố Huế của Đảng Tân Việt. Sau này khi cách mạng thành công, trong một bữa cơm thân mật ở nhà tôi, Bác nói vui “nhờ cô chú rủ nhau đi làm cách mạng, nay mới có dịp sum họp đông vui thế này”. Tôi thưa với Bác: “Không ai rủ ai đâu ạ, cháu tự đi thôi, anh Thiện cũng vậy”.
Đầu năm 1930, sau khi ba Đảng hợp nhất, một hôm chị Minh Khai và chị Phụ đến 41 Hàng Mắm tìn cô Điền cho biết rằng, Đảng chủ trương tăng cường gây dựng cơ sở ở Hải Phòng – Hòn Gai là nơi tập trung nhiều công nhân, rằng nếu có điều kiện thì nên thoát ly gia đình xuống Hải Phòng hoạt động. Thế là cô Điền quyết định ra đi. Trước khi đi, vì mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm 4 tuổi, ở với ông anh cùng cha khác mẹ, nên cô đã để lại cho ông anh một lá thư tỏ ý chán đời muốn đi tu! Anh cô tưởng thật, đã cho in ảnh cô nhờ sở cảnh sát tìm kiếm khắp các chùa chiền.
Tại Hải Phòng, cô Điền bắt liên lạc với ông Nguyễn Tạo, là người cùng hoạt động ở chi bộ phố Huế trước đây. Nhóm hoạt động của cô gồm ông Nguyễn Tạo, ông Chức, ông Sáng và 2, 3 công nhân in có nhiệm vụ in tài liệu, làm giấy thuế thân và căn cước giả để các đồng chí đi hoạt động. Cô Điền bán sợi dây chuyền 2 chỉ vàng để mở quán cơm làm địa điểm liên lạc vận động công nhân. Từ Hải Phòng, cô Điền cũng thường chuyển tài liệu về Hà Nội, Hòn Gai. Lúc ấy cực lắm. Hoạt động cách mạng mà trốn Tây thì ít, trốn “quân ta” nhiều hơn. Thoáng thấy bóng người quen là phải lánh mặt, rất ngại người ta nghi ngờ bảo đi tu chùa sao lại lang thang ở Hải Phòng, Quảng Ninh thì trả lời cách sao cho lọt tai, cho thoát tù đây? Và rồi cô bị tù thật, do một tên phản bội chỉ điểm. Pháp giam cô ở Sở Cẩm Hải Phòng sau giải về mật thám Hà Nội. Đòn tù của Pháp cũng kinh hãi lắm. Chúng đưa ảnh Trần Phú, Nguyễn Ái Quốc ra hỏi. Và cứ mỗi cái lắc đầu lại nhận ngay một “trùy” vào cái đầu vừa lắc. Rồi thì cứ khoảng 2 giờ đêm, lúc tinh thần con người ta mềm yếu nhất, chúng lục dậy treo ngược lên xà nhà, đánh từ trên xuống, lại đánh từ dưới lên. Nhưng cũng may, nhờ ở tù của Pháp mà cô Điền có cơ hội làm quen với các nhà cách mạng vừa bị bắt ở Thượng Hải về như các ông Nguyễn Lương Bằng, Hồ Tùng Mậu, Đỗ Ngọc Du ... Lại cũng đã gặp ông Lê Duẩn ở trong lao. Sau này đã có lần đồng chí Lê Duẩn nói với con gái cụ Điền “mẹ cháu tốt lắm, ở trong tù, mẹ cháu còn nhường cơm cho chú đấy!”.
Cuối năm 1931, cô gái 20 tuổi Trịnh Thị Điền đã quyết tuyệt thực một tuần liền để phản đối việc tra tấn dã man và ngược đãi phụ nữ. Sợ cô chết, người Pháp phải đưa cô ra điều trị ở nhà thương Phủ Doãn. Và sau đó, phải trả tự do cho cô, vì chẳng khai thác được gì, cũng chẳng có bằng cớ buộc tội. Chánh mật thám Ac-nuc giao cô cho anh cô quản thúc: “Con này cứng đầu cứng cổ lắm, không chịu khai gì cả, nếu nó trốn thì chúng tôi bắt anh”. Trong thời gian cô Điền điều trị ở nhà thương Phủ Doãn, các ông Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Tạo ... cũng bị giam trong khu tù của bệnh viện. Biết ý đồ vượt ngục của nhóm này, cô Điền đả gửi vào cho ông Nguyễn Tạo 2 lưỡi cưa sắt bằng nửa ngón tay út nhét trong đôi dép dừa, giúp nhóm này vượt ngục vào đêm Noel 1931.
Cùng thời gian này, ông Đỗ Đình Thiện bị bắt tại Pháp. Giáo sư Trương Công Quyền kể lại rằng: “Anh Đỗ Đình Thiện là bạn học của tôi từ năm 1927. Anh Thiện có tham gia hoạt động cách mạng, là đảng viên Cộng sản Pháp ... Trong thời gian anh Thiện ngồi tù, tôi có vào thăm anh Thiện nhiều lần cùng các đồng chí đảng viên Cộng sản Pháp ... Lần cuối cùng tôi đến thăm thì được trả lời là anh Thiện không còn trong tù nữa, mà đã bị trục xuất về nước”.
Bị quản thúc chặt chẽ, nhà cửa thường xuyên bị khám xét, ông bà Đỗ Đình Thiện trở về với những công việc đời thường, mở hiệu buôn bán tơ lụa, rồi tậu đất, dựng nhà máy, đồn điền. Đến đầu những năm 40, thì ông bà Thiện đã được giới tư sản Hà Nội biết tiếng và kính nể. Ông bà Thiện giúp đỡ bạn bè nhiều lắm, còn dám cả gan nhận một số bạn ở tù ra vào làm việc: Vũ Đình Huỳnh làm ở tiệm buôn, Nguyễn Tuấn Thức và Lê Văn Hiền làm ở đồn điền Chi Nê. Trước hết là để anh em có việc làm, sau đó là để tiện việc liên lạc với cách mạng.
Năm 1943, ông Nguyễn Lương Bằng vượt ngục Sơn La, nhắn tin qua ông Vũ Đình Huỳnh là muốn gặp ông Thiện. Ông Thiện hẹn gặp tại nhà riêng. Thế là bác Cả đóng vai một người buôn tơ đến tìm ông Thiện tại 54 Hàng Gai. Ông Bằng cho biết, Đảng đang rất khó khăn về tài chính. Bà Điền lên gác mở tủ đưa ông Bằng ba vạn đồng Đông Dương. Năm 1972, trong một lần tiếp bà Điền tại nhà riêng, đồng chí Trường Chinh, khi nhắc lại sự việc này, đã nói “Khi chúng tôi nhận được ba vạn đồng Đông Dương chị gửi cho qua anh Nguyễn Lương Bằng, quỹ Đảng chỉ còn 24 đồng”. Chính ông Bằng sau này có kể lại với ông Nguyễn Tuấn Thức rằng, ông thực sự bàng hoàng khi nhận số tiền lớn như vậy từ tay bà Điền. Đầu năm 1945, ông bà Thiện lại nhờ ông Vũ Đình Huỳnh chuyển tới ông Nguyễn Lương Bằng mười vạn đồng Đông Dương nữa. Ông Nguyễn Tạo cũng ghi nhận. “Cuối tháng 12-1932, tôi vượt ngục ở Hỏa Lò. Đồng chí Trịnh Thị Điền lại liên lạc với đồng chí Nguyễn Thụy Nhân giúp đỡ tôi. Năm 1943, tôi vượt ngục Ban Mê Thuột ra tới Hà Nội, đồng chí Trịnh Thị Điền lại liên lạc, cho tôi hai vạn đồng Đông Dương để tổ chức hoạt động cách mạng”.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nhà riêng ông bà Thiện ở 54 Hàng Gai trở thành “nhà khách” của Chính phủ. Các phái đoàn Nam Bộ, Phụ nữ Nam Bộ ... đều đã qua đây nghỉ ngơi, ăn uống, may quần áo. Bác cũng đã mời cơm cụ Huỳnh Thúc Kháng tại đây. Bà Điền còn được giao tổ chức tiệc ở phố Nguyễn Du để Bác tiếp tướng Tiêu Văn, Lư Hán ... Ông Thiện được cử phụ trách “quỹ độc lập” trung ương. Khi ấy, ông Thiện đã góp vào quỹ này mười vạn đồng Đông Dương (trị giá 4kg vàng). Trong tuần lễ vàng, ông bà Thiện lại ủng hộ 4kg nữa. Dịp ấy một tờ báo đã đăng mẩu tin như sau: “7-10-1931, một sinh viên tòng học năm thứ 3 trường Đại học khoa học ở Tu-lu-dơ bị bắt ở ga Ma-la-bơ-lăng vì tặng bánh mì có truyền đơn nhét vào trong ruột cho binh lính Việt Nam mãn hạn lên tàu về nước. Truyền đơn này xúi giục binh lính khi trở về nước thì bất tuân thượng lệnh và hưởng ứng phong trào cách mạng. 19-11 năm đó, sinh viên ấy bị tòa án Tu-lu-dơ phạt 4 tháng tù, sau khi nhận hoàn toàn trách nhiệm về việc mình làm, nhưng không chịu khai ai là đồng phạm. Sinh viên ấy, một đảng viên Cộng sản tên là Đỗ Đình Thiện, người mà ai nấy đều biết tiếng về “Tuần lễ vàng” vừa rồi. Khàng chiến toàn quốc bùng nổ, ông Thiện với tư cách phó chủ tịch Ủy ban kháng chiến khu Hoàn Kiếm, bà Thiện phụ trách tiếp tế cứu thương đã cùng tự vệ thành chiến đấu bảo vệ Thủ đô trong 10 ngày đêm, sau đưa hơn 300 cán bộ, nhân dân, bí mật theo đường Chèm rút ra vùng tự do. Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, đồn điền Chi Nê của ông bà Đỗ Đình Thiện trở thành “binh trạm của Việt Minh; là nơi qua lại, dừng chân của nhiều cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước trên đường lên chiến khu Việt Bắc; là nơi dừng chân và dưỡng sức của nhiều đoàn quân trước khi ra mặt trận và trên đường Nam tiến. Bác cũng đã qua lại nơi đây nhiều lần. Vụ lúa thu 1946-1947, ông bà Thiện đã ủng hộ Vệ quốc đoàn chiến khu 2 khoảng 200 tấn thóc. Trong thư đề ngày 21-1-1947, khu trưởng Hoàng Sâm và chính trị ủy viên Lê Hiến Mai gửi ông Đỗ Đình Thiện đã viết “Toàn thể bộ đội khu hai rất cảm động được ngài ủng hộ vụ lúa thu trong quý đồn điền năm 1946-1947 ... Với lòng tha thiết của ngài trong công cuộc kháng chiến hiện nay, toàn thể bộ đội khu hai xin hứa luôn luôn nỗ lực chiến đấu, quyết hợp lực cùng toàn dân phá tan kế hoạch mùa đông của địch để xứng với sự nhiệt tình ngài đã dành cho”.
Sau Cách mạng Tháng Tám, theo yêu cầu của Bộ Tài chính, ông Đỗ Đình Thiện đã đứng tên mua lại nhà in Tô-pin của Pháp (vì người Pháp không chịu bán cho Chính phủ ta), lại cho Bộ Tài chính mượn địa điểm, nhà xưởng, nhà máy điện, nước của đồn điền Chi Nê để đặt nhà máy in tiền đầu tiên của nước VNDCCH do ông Phạm Quang Chúc phụ trách.
Ông Lê Văn Hiến, nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính đã từng viết:
“Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ông bà Đỗ Đình Thiện đã có nhiệt tình đóng góp nhiều cho cuộc kháng chiến: Ông bà đã dành một địa điểm rất thích hợp tại Cổ Nghĩa, Chi Nê để Bộ Tài chính xây dựng một nhà máy in bạc tương đối lớn, đáp ứng yêu cầu về tài chính trong thời gian đầu cuộc kháng chiến”. Ngày 22-2-1947, 8 máy bay khu trục Pháp oanh tạc đồn điền Chi Nê, tài sản của ông bà Thiện bị thiêu hủy nặng nề, nhiều kho vật liệu, sản phẩm (cà phê) bị cháy không cứu chữa được. Được tin này, Bác gửi tới ông bà Thiện tấm thiếp như sau: “ Chú thím Thiện. Được tin chú thím, nhà Hiền (là bạn đồng thời là người cộng sự của ông bà Thiện – T.G) và các cháu đều bình an, tôi rất vui lòng. Mất của cải, không sợ (còn trời còn nước còn non, thì còn của cải bà con họ Hồ). Kháng chiến thành công, ta làm ra của khác, chắc chắn hơn. Chúc các chú thím mạnh khỏe. Hôn các cháu. Chào thân ái và quyết thắng”.
Sau trận bom ấy, ông bà Đỗ Đình Thiện đưa cả gia đình gồm mẹ già và 4 con (nhỏ nhất mới 4 tuổi là Đỗ Long Vân; và 3 chị gái là Đỗ Thanh Liên, Đỗ Kim Anh, Đỗ Thiên Hương mà lớn nhất mới 12 tuổi và sau này đều là trí thức cách mạng) lên Việt Bắc, theo đuổi cuộc kháng chiến 9 năm. Nhà “tư sản cách mạng” hay đúng hơn là nhà “tư sản của cách mạng” Đỗ Đình Thiện cũng ba lô trên vai, trèo đèo lội suối, cùng anh em công nhân đẩy mảng trên dòng suối lũ để xây dựng nhà máy cơ khí đầu tiên tại chiến khu Việt Bắc – nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo mà ông Thiện được đồng chí Nguyễn Lương Bằng mời làm giám đốc trưởng. Rồi sau đó lại tham gia thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam ở chiến khu Việt Bắc.
Đang dở câu chuyện, bỗng dưng cụ Điền tủm tỉm cười “ông nhà tôi làm giám đốc nhưng không chịu hưởng lương”. Bác Cả hỏi “sao kỳ vậy”. Ông tôi bảo “hưởng lương khó làm việc lắm. Không lương dễ nói hơn”. Cụ Điền lại ngừng lời và lại khẽ khàng đến bên bàn thờ thắp tuần nhang mới cho cụ ông. Cụ nói, như dành cho một mình vong linh của cụ ông thôi “thời buổi này mà nói chuyện cũ e người ta khó tin ông ạ”. Rồi cụ quay ra nói với tôi, có những chuyện nay nghĩ lại thấy buồn cười lắm! Trong kháng chiến, ông tôi không nhận lương, hòa bình rồi, làm Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng không có lương. Cho đến lúc ốm vào nằm ở bệnh viện Việt-Xô, bệnh viện lúng túng chẳng biết xếp vào tiêu chuẩn nào. Thấy các vị Bộ Chính trị và lãnh đạo Nhà nước thường xuyên đến thăm, bác sĩ chủ nhiệm khoa hỏi nhỏ tôi “thế lương cụ ông bao nhiêu?”. Tôi trả lời “ông tôi không có lương”, ông bác sĩ tỏ vẻ không tin, lẳng lặng bỏ đi. Cả chuyện này nữa, nghe có vẻ khó tin: Suốt cả thời bao cấp, cụ Thiện chỉ hưởng bìa “N” (thứ tem phiếu dành cho dân thường mỗi tháng được mua một lạng đường và một lạng thịt).
Ngày đầu tiên của năm 1972, giữa 2 trận bom của không quân Mỹ, cụ Đỗ Đình Thiện mất (1-1-1972) thọ 69 tuổi. Các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quốc hội đều tới viếng. Đồng chí Nguyễn Lương Bằng tới đầu tiên, muốn nhìn mặt bạn lần chót, nhưng nhà đã liệm xong. Chủ tịch Trường Chinh đến hai lần. Một lần đi với phu nhân, đồng chí nói: “Hôm nay tôi tới hỏi thăm gia đình. Ngày mai tôi tới viếng anh”. Nhóm bạn đồng học ở Pháp cũng có mặt đủ: Giáo sư Trần Văn Giàu, giáo sư Trương Công Quyền, ông Nguyễn Văn Long, ông Châu Lượng, ông Phan Tư Nghĩa, họa sĩ Phi Hoanh ... Lúc viếng cụ Đỗ Đình Thiện, có ai đó đã thì thầm khấn “Giàu không bỏ bạn, nghèo không bỏ bạn, gian nan vẫn thủy chung với bạn! Suốt một đời chúng tôi theo học cái nghĩa tình trước sau như nhất của anh!”.
Tôi nói với cụ bà Đỗ Đình Thiện “chuyện của các cụ nghe cứ như ... cổ tích ấy”. Đúng là cổ tích nhưng mới xảy ra hôm qua thôi, do Đảng, Bác Hồ kính yêu khơi nguồn. Các cụ là nhà tư sản của cách mạng, nhờ hoạt động cách mạng mà trở thành tư sản để phục vụ cách mạng! Giáo sư Long Vân cho tôi xem toàn bộ thư từ của Bác, của Bác Cả gửi cho gia đình ở Chi Nê, ở Việt Bắc. Giáo sư còn cho xem tập an bom ảnh những ngày cụ ông Đỗ Đình Thiện làm việc cùng Bác ở Pháp, ảnh Bác đến thăm gia đình giáo sư ở rừng Việt Bắc, cả tập nhật ký làm việc của Bác do cụ Đỗ Đình Thiện ghi tại Pháp mà Viện nghiên cứu Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng vừa mới gửi tặng gia đình hôm 29-11-1993.
Bàn tay vị giáo sư trượt khỏi tập an bom ảnh, đôi mắt thông minh của ông chợt xa vắng như dõi về nơi sâu thẳm của ký ức. Có lẽ ông đang nhớ về một thời sống đẹp đến hoàn mỹ của người cha đáng kính.
Đội Cấn đầu đông 1994

Thứ Tư, 2 tháng 2, 2011

Vị nữ bác sỹ già và 21 lần được gặp Hồ Chủ tịch


Trong ký ức của bà Thiên Hương, cuộc gặp gỡ với luật sư Loseby vẫn như mới hôm qua (Ảnh tư liệu)
Những ngày này, căn biệt thự nằm sâu trong con ngõ nhỏ góc phố Nguyễn Du chợt ồn ào hơn hẳn. Rất nhiều lượt khách, vì hiếu kỳ và ngưỡng mộ, đã đến tận nơi mong được gặp cô gái nhỏ ngày nào đã từng 21 lần được gặp Bác.
Cô gái  từng được Bác coi như người trong gia đình ấy giờ đã ở vào độ tuổi thất thập cổ lai hy nhưng những ký ức về người cha già kính yêu vẫn chưa hề phai nhạt.
Bà là bác sỹ Đỗ Thiên Hương, con của nhà tư sản yêu nước Đỗ Đình Thiện, thư ký riêng tháp tùng Bác Hồ trong chuyến ngoại giao đầu tiên của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Pháp năm 1946.
Học Bác từ những điều giản dị nhất
Mặc dù đã 72 tuổi, nhưng trong ký ức của bác sỹ Thiên Hương, những kỷ niệm về Bác vẫn chưa bao giờ phai nhạt. Đến tận bây giờ, bà vẫn tự nhủ  phải học tập Bác từ những điều giản dị nhất.
Ký ức miên man đưa người bác sỹ già quay trở về mấy chục năm về trước khi vẫn còn là một cô gái ngây thơ. Một lần nọ, vào dịp Tết Nguyên đán sau giải phóng Thủ đô, cả gia đình cô bé Hương được đón Bác về thăm.
"Bao giờ tới nhà, Bác cũng có thói quen điểm mặt các thành viên trong gia đình tôi. Khi ấy, tôi đang sốt li bì nằm trên gác nên không thể xuống đón Người được. Bác đã lên gác, vào tận giường thăm hỏi," bà Hương bồi hồi nhớ lại.
Khi ấy, mặc dù còn rất mệt, nhưng khi vừa nhìn thấy Bác, Hương đã vui mừng vùng dậy, ôm chầm lấy Người và chỉ thốt lên được một câu: "Bác!" Vị cha già ôn tồn khuyên bảo Hương, và hứa mấy ngày nữa sẽ cho đón cả nhà lên thăm Bác. Nhưng đến ngày hẹn, cô bé Hương vẫn chưa khỏi ốm. Nhìn cả nhà được đi thăm Bác, Hương tủi thân bật khóc.
"Sau này tôi mới biết, mẹ tôi có đem chuyện này kể lại với Người. Bác hứa khi nào tôi khỏi thì sẽ đón lên chơi," bà Hương nói.
Tin được ra với Bác, được trò chuyện cùng vị lãnh tụ vĩ đại khiến cô bé Hương ngày đêm háo hức. Và rồi cuối cùng, thời khắc ấy cũng đã đến. Hương được vào Phủ Chủ tịch với Bác, được theo chân Người ra ao cá.
Trong con mắt trẻ thơ của Hương, hình ảnh bầy cá vàng quẫy đuôi giành thức ăn [những mẩu ruột bánh mỳ Bác để lại sau mỗi bữa sáng - PV] là một cảnh tượng vô cùng thú vị. Chưa bao giờ, cô thấy có nhiều cá đến vậy. Trong một khắc, Hương bỗng quên mình đang đứng cạnh Bác, reo lên sung sướng. Trìu mến nhìn đứa cháu nhỏ đang mê say với ao cá, Bác ân cần cười và bảo: "Thế hôm nay, Bác sẽ đãi cả gia đình cháu bữa cá nhé."
Đó có lẽ là bữa ăn đáng nhớ nhất trong suốt cuộc đời của bác sỹ Thiên Hương. Bà bảo: "Điều cảm động nhất là mặc dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn không quên lời hứa với một đứa trẻ."
Bà Hương vẫn cứ nhớ mãi một lần khác được gặp Bác. Hai Bác cháu đang ngồi, bỗng Người hỏi: "Cháu có biết khâu không ?"
- Dạ, thưa Bác có ạ ! – Hương trả lời.
Lập tức, Bác đưa cho Hương một đôi giày vải sẫm màu, đã có vết rách và hộp kim chỉ. Bác bảo:"Đôi giày này tuy dã cũ nhưng nếu khâu lại, Bác vẫn dùng được.”
Khâu xong, Hương được Bác tặng cho chiếc hộp nhôm đựng thuốc lá bác vẫn dùng để đựng kim chỉ. Và cho đến tận bây giờ, người bác sỹ già ấy vẫn cứ giữ chiếc hộp nhôm như một báu vật của cả cuộc đời mình.
Cuộc gặp gỡ lịch sử với luật sư Loseby

Năm 1931, trong thời kỳ hoạt động cách mạng ở Hongkong, Bác Hồ đã bị cảnh sát nước này bí mật bắt giam. Thực dân Pháp khi đó đã vận động Cảnh sát Hongkong trục xuất Bác về Việt Nam để xử lý.
Nhưng âm mưu của chúng đã không thể thực hiện được khi một luật sư người Anh có tên Loseby đã dùng tài năng và mối quan hệ của mình đứng ra bảo vệ Bác; sau đó giúp Bác rời khỏi Hongkong an toàn. Năm 1960, Bác đã mời những vị ân nhân của mình sang thăm Việt Nam.
Bà Hương còn nhớ khi ấy bà đang là sinh viên y khoa năm thứ nhất. Bà rất bất ngờ khi được vinh dự cùng Bác ra tận chân cầu thang máy bay đón luật sư và gia đình.
Trong ký ức của bà Hương vẫn in đậm những ngày tháng ấy. Ngày khách sang, trời mưa lất phất nhưng Bác vẫn cùng mọi người ra tận phòng khách của sân bay Gia Lâm.
Luật sư Loseby sang thăm Việt Nam cùng vợ và một cô con gái. Khách rất xúc động khi nhận những bó hoa tươi thắm từ cô sinh viên y khoa Thiên Hương và đặc biệt hơn nữa là họ lại được chính vị Chủ tịch nước dù bận trăm công nghìn việc vẫn ra tận nơi đón.
Bác và luật sư Loseby ôm hôn nhau thắm thiết, 30 năm mới gặp lại nhau nên ai cũng bồi hồi. Bác giới thiệu Thiên Hương với vị ân nhân của mình: “Cháu gái đây là con gái của một gia đình tư sản yêu nước Việt Nam.”
Đoàn luật sư được đưa về nghỉ tại một biệt thự có vườn hoa trên đường Nguyễn Du, bên cạnh hồ Thiền Quang. Bác cùng đi với đoàn, xem qua chỗ ăn ở và thân mật dặn dò mọi người nghỉ ngơi cho thoải mái trong những ngày ở thăm Việt Nam.
Trong những ngày ở Hà Nội, Bác đến thăm gia đình luật sư khá thường xuyên, nói chuyện với họ rất chân tình. Những lúc rảnh, Bác đưa những vị khách quý đi thăm một số nơi như Nhà máy Cơ khí Hà Nội, Trại nhi đồng miền Nam và nơi làm việc của Người. Những vị khách rất ngạc nhiên vì sao vị Chủ tịch của một nước lại sống và làm việc ở nơi bình dị như thế?
Nhớ lại những ngày được cùng Bác đón đoàn luật sư nước ngoài, bà Hương không giấu nổi xúc động: "Dù đã nhiều năm trôi qua nhưng những ấn tượng về Bác ngày đón luật sư Loseby vẫn vẹn nguyên trong tôi như ngày nào."
Năm nay, bà Hương đón sinh nhật lần thứ 120 của Bác giữa lòng thành phố mang tên Người. Từ miền Nam đầy nắng gió, gọi điện cho chúng tôi, bà bảo: "Tôi may mắn vì được sinh ra và lớn lên trong một gia đình mà Bác Hồ là một người vô cùng gần gũi. Tình cảm đó đã lan truyền đến cả bốn chị em chúng tôi. Dù đi đâu, về đâu, chúng tôi cũng luôn tự nhủ phải luôn sống làm sao cho xứng với Người."./.
Sơn Bách (Vietnam+)

Chủ Nhật, 30 tháng 1, 2011

BÌNH DỊ MỘT CUỘC ĐỜI

Phần thứ nhất




BÌNH DỊ MỘT CUỘC ĐỜI









“Dấu xưa ai biết đâu tìm, 
Thương ai bẩy nổi ba chìm nước non.”

                                Sóng Hồng



                                                       Ông Đỗ Đình Thiện – Hà Nội - 1955


1. THUỞ ẤU THƠ
Ông Đỗ Đình Thiện sinh  năm 1904 (Giáp Thìn) tại Hà Nội. Thân sinh ông Thiện là cụ Đỗ Viết Bình, thân mẫu là cụ Trần Thị Lan. Ông Thiện là út trong gia đình, có hai anh và một chị: Đỗ Viết Dung, Đỗ Thị Hiên, Đỗ Văn Tùng[1].
Thân sinh ông Thiện, cụ Đỗ Viết Bình, quê ở làng Noi, nay là xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Lúc sinh thời, Cụ Bình đã từng làm thư ký cho một chủ đồn điền người Pháp ở Tuyên Quang, nhưng chẳng may cụ lâm bệnh mất sớm, lúc 30 tuổi, và khi đó ông Thiện mới tròn 5 tháng.


         Ảnh: Cụ Trần Thị Lan (ngồi hàng đầu, bên phải) với một số thành viên trong đại gia đình Người đứng phía sau cụ Lan là ông Đỗ Đình Thiện

Thân mẫu ông Thiện, cụ Trần Thị Lan, quê ở làng Kẻ thuộc Hà Tây. Góa chồng từ năm 28 tuổi, cụ Lan ở vậy thờ chồng nuôi con, mặc cho không ít người tử tế theo đuổi, đòi lấy. Xuất thân là con gái nông thôn, sau khi lấy chồng, cụ Lan đã sớm tìm đường ra tỉnh làm ăn: buôn tơ, ướp chè sen, chế rượu chổi …Vốn chịu thương chịu khó, cụ đã tần tảo gây dựng nên một cơ nghiệp, tuy không giầu sang, nhưng vững chắc, đủ nuôi dưỡng các con lớn khôn và được học hành. Những năm trước kháng chiến chống Pháp, cụ có tiệm buôn tơ khá lớn ở 72-74 Hàng Gai, Hà Nội.
Không được đến trường học, nhưng cụ Lan thuộc rất nhiều ca dao, tục ngữ, tích thơ, mà nội dung chủ yếu là những điều dăn dạy đạo lý làm người. Rất coi trọng đức tính tiết kiệm và tinh thần tự lập, Cụ thường đọc cho con cháu nghe những câu như:
“Buôn tầu buôn bè không bằng ăn dè, hà tiện.”
“Dạy vợ có dưa đừng gắp mắm,
  Khuyên con bớt gạo, cạo thêm khoai,
  Ai cười hà tiện, ta chịu vậy,
  Chẳng phiền ai, chẳng lụy ai.”
Tiết kiệm đối với bản thân, nhưng Cụ rộng lòng giúp đỡ mọi người. Cụ đã xây cầu, xây quán cho làng, giúp đỡ, tạo dựng cho nhiều bà con họ hàng lên tỉnh làm ăn. Cụ đã từng ủng hộ tiền cho Đông Kinh Nghĩa Thục, và sau này cho báo  “Le Travail”. Nói chung, Cụ đã để lại nhiều ân nghĩa và tiếng thơm ở cả hai quê, hai họ. Bà con quen gọi Cụ một cách trân trọng bằng cái tên “Cụ Ký Hàng Gai”.
          Được nuôi dưỡng trong hoàn cảnh mất bố từ 5 tháng tuổi, mẹ buồn phiền, mất sữa, ông Thiện thời thơ ấu là một cậu bé gầy yếu, biếng ăn. Cụ Lan rất thương cậu con út sớm mất cha, còn cậu bé Thiện, không còn bố, cậu dồn cả tình thương cho mẹ. Chuyện kể rằng, hồi bé ngủ với mẹ, cậu bé Thiện cứ phải nắm dải yếm của mẹ thì mới chịu ngủ…
         

2. THỜI NIÊN THIẾU
          Hai anh ông Thiện, các ông Đỗ Viết Dung và Đỗ Văn Tùng, đều đã theo tây học, nên thân mẫu ông Thiện muốn cho ông học chữ Nho để sau này giúp cụ đọc các giấy tờ, văn tự. Thế là ông Thiện đã theo học 4 năm chữ Nho với một ông thầy đồ dạy học theo kiểu cổ, rất khắc nghiệt, dạy thì ít mà đánh phạt học sinh thì nhiều. Những kỷ niệm về thời kỳ này đối với ông Thiện không mấy dễ chịu, và cuối cùng ông đã thôi học chữ Nho, chuyển sang học chữ quốc ngữ ở trường Hàng Vôi, Hà Nội.

                                           Ảnh minh họa: Phố cổ Hà Nội  (Rue des Caisses), 1943

Nhiều cá tính của ông Thiện đã hình thành từ thời kỳ này, trên ghế nhà trường: thẳng thắn, trung thực, kiên quyết bênh vực lẽ phải, và, mặc dù nhỏ người, ông không chịu để ai cậy sức bắt nạt mình và bạn bè mình. Trong phong trào để tang cụ Phan Chu Trinh, ông Thiện đã tham gia tích cực và bị đuổi học, phải đổi giấy khai sinh, xuống Nam Định học tiếp.
          Năm 1927, ông Thiện quyết chí xin mẹ cho đi Pháp học. Tôn trọng ý nguyện của con, nhưng trong thâm tâm không muốn dời xa con, cụ Lan - mẹ ông đã nghĩ ra kế hỏi vợ cho ông với hy vọng, vì quyến luyến vợ chưa cưới, ông Thiện có thể sẽ từ bỏ ý định du học. Thời bấy giờ, có hình thức chơi họ: một số gia đình quen biết tin tưởng nhau quy định hàng tháng mỗi nhà đóng góp một số tiền, và lần lượt mỗi nhà sẽ được sử dụng toàn bộ số tiền đóng góp của một tháng. Như vậy mỗi gia đình, luân phiên, sẽ có được trong tay một món tiền đủ lớn để giải quyết công việc cần thiết. Cô gái mảnh mai, xinh xắn, dịu dàng Trịnh Thị Điền, ở phố Hàng Mắm, thường tới nhà cụ Lan thu tiền họ. Ưng người, ưng nết, cụ Lan quyết định dạm hỏi cô Điền cho ông Thiện. Chuyện kể lại rằng, nhiều ngày, mới sáng tinh mơ, cụ Lan đã đột xuất đến “thăm” để xem cô Điền có dậy sớm không, ăn ở có ngăn nắp không, có chăm chỉ việc nhà không…Thế là một ngày đẹp trời, chàng trai 24 tuổi Đỗ Đình Thiện và cô gái 16 tuổi Trịnh Thị Điền đã chính thức gặp mặt. Qua trao đổi chuyện trò, cả hai bên đều có thiện cảm và ưng thuận. Tuy nhiên, ông Thiện vẫn không từ bỏ ý định du học, và họ thỏa thuận đính ước nhưng không buộc nhau nhất thiết phải đợi chờ.
          Ông Trịnh Đình Cửu[2] vốn là bạn học của ông Đỗ Đình Thiện ở trường Hàng Vôi. Ông Cửu muốn vân động ông Thiện tham gia hoạt động cách mạng cùng với mình, nhưng lúc này ông Thiện đã sắp lên đường đi Pháp rồi nên không thể nhận lời. Một người bạn ông Thiện đã chứng kiến và kể lại mẩu đối thoại (bằng tiếng Pháp) như sau giữa ông Cửu và ông Thiện:
- Anh có bầu mấu nóng không? – ông Cửu hỏi.
- Chừng nào tim tôi còn đập thì máu tôi còn nóng. – ông Thiện trả lời.
Ông bạn kể lại câu chuyện này nói rằng, khi nghe được những lời đầy tâm huyết và “nguy hiểm” ấy, ông thấy lạnh cả người.

3. DU HỌC VÀ DẤN THÂN (1927-1932)
Tại Pháp, ông Thiện theo học Trường kỹ sư canh nông Toulouse.
Năm 1928 ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, hoạt động, đấu tranh vì giải phóng dân tộc. Ông từng được Đảng Cộng sản Pháp cử đi Liên Xô học Trường Phương Đông Staline, nhưng vì lý do sức khỏe, ông không ở Liên Xô lâu, mà trở về tiếp tục hoạt động ở Pháp.

Ảnh: Ông Đỗ Đình Thiện
những năm du học ở
Pháp (1927-1932)
 


         









Ngày 7-10-1931 ông Đỗ Đình Thiện bị cảnh sát Pháp bắt tại nhà ga Matabiau, Toulouse, khi mang theo truyền đơn để trao cho binh lính người Việt Nam trong quân đội Pháp trên đường hồi hương. Ông bị đưa ra xử trước tòa án ở Toulouse, bị kết án 4 tháng tù giam và trục xuất về nước.
Trong số những bạn học và đồng chí cùng hoạt động với ông Thiện ở Toulouse, mà sau này vẫn giữ quan hệ thân thiết, có các vị : Trần Văn Giầu, vợ chồng Trương Công Quyền, Nguyễn Văn Tạo, Phan Tư Nghĩa, Châu Lượng, Nguyễn Văn Dựt …

Ảnh: Giấy chứng thực của
GS. Trương Công Quyền
 

















GS. Trương Công Quyền viết:“Trong thời gian anh Thiện ngồi tù, tôi có vào thăm anh Thiện nhiều lần cùng các đồng chí đảng viên cộng sản Pháp, anh Thiện đã không chịu khai bất cứ một ai trong tổ chức của mình, mà nhận trách nhiệm hoàn toàn về mình. ”
          Trang đầu Hồ sơ 15SLOTFOM 79/2301 về Đỗ Đình Thiên, hiện lưu giữ tại Pháp, ghi :
          - Họ tên : Đỗ Đình Thiện.
          - Bí danh : Ngô Tôn Sang, Dejean Leclerc-Maxime.
          - Nơi thường trú : 7 Rue de Metz à Toulouse.
          - Từ Nga về 18-5-1927.
          - Trục xuất về Đông Dương ngày 3-2-1932 trên tầu thủy “Amboise”.
          Trong thư, ngày 5-10-2006, của GS. Trịnh Văn Thảo (Việt kiều ở Pháp) gửi GS. Đặng Phong, đã tóm tắt hồ sơ về Đỗ Đình Thiện, hiện lưu giữ tại Pháp, như sau:
          “Đảng CS Pháp đã biểu tình phản đối việc bắt bớ, đưa Đỗ Đình Thiện ra tòa và kết án ông ta.”
         
Ảnh: Trang đầu hồ sơ 15SLOTFOM 79/2301 về Đỗ Đình Thiện
hiện lưu giữ tại Pháp
 

















“Đảng CS Pháp cũng tìm trạng sư bào chữa cho ông và phát động cuộc quyên tiền vào quỹ đoàn kết trong khi ông bị ngồi tù.”
          “Vài tài liệu tóm tắt các buổi họp của Ủy ban Đông Dương (do mật vụ Pháp ghi lại) cho thấy vai trò khá tích cực của ông Đỗ Đình Thiện với cán bộ cộng sản vùng Tây Nam như Phan Tư Nghĩa, Nguyễn Văn Dựt … bên cạnh các trí thức yêu nước như Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm …”
          “Nói tóm lại, Hồ sơ 15 slotfom 79/2301 về Đỗ Đình Thiên tóm tắt một cách khá đầy đủ hành trình chính trị của một sinh viên, tuy du học nhưng đã sớm chọn dấn thân cách mạng, theo con đường mac-xit lenin-nit và lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc.”
          Tờ Trung lập Báo, xuất bản ở Việt Nam, ngày 4-1-1932 đã đăng bài sau đây:
Tin bên Pháp gởi về
Một người học sinh Việt nam bị 4 tháng tù
          Toulouse – Hôm 19/11 vừa rồi tòa án trừng trị ở Toulouse có đem xử một người Việt Nam tên là Đỗ Đình Thiện về tội tuyên truyền chủ nghĩa Vô chính phủ (Anarchisme) và xúi dục quân lính bất tuân thượng lịnh. M. Thiện bị cáo về tội rải truyền đơn ở các trại lính ngày 30/7, 10/9 và 1/10/1931.
          M. Đỗ Đình Thiện bị bắt tại gare Matabiau ngày 7/10. Hôm ấy M. Thiện được tin rằng mấy toán lính Đông Dương thuộc cơ 52 về đội pháo thủ thuộc địa đã mãn hạn, sắp xuống tàu về nước, nên Thiện định ra đón tận bến tàu: ra đến nơi chưa kịp trao truyền đơn thì đã bị bắt.
          Lúc đưa ra tòa, có hai viên thanh tra mật thám làm chứng, khai rằng có bắt được trong nhà M. Thiện hai cái máy đánh chữ, đã dùng vào việc sắp truyền đơn mà hai viên ấy đã bắt được và hiện còn giữ tại ty mật thám.
          Lúc thầy kiện bên nhà nước và trạng sư bên bị cãi xong thì tòa tuyên án M. Đỗ Đình Thiện 4 tháng tù.
          Số báo sau sẽ xin thuật rõ lời cãi của M. Thiện và lời biện hộ của thầy kiện về việc này; hôm nay vì bài nhiều quá. Xin độc giả lưu ý.”
          Chuyện kể rằng, luật sư Pê-rô, do đảng CS Pháp cử ra cãi cho ông Thiện, đáp tàu hỏa đến gặp thân chủ chỉ 30 phút trước khi diễn ra phiên tòa. Luật sư và bị cáo thỏa thuận với nhau sẽ lợi dụng diễn đàn của tòa để tuyên truyền cho chủ nghĩa yêu nước và lý tưởng cộng sản, dù cho có thể vì thế mà bị cáo sẽ bị kết án nặng hơn. Trên tòa, luật sư đã hùng biện, nói to tới mức làm rung cả cửa kính mặc dù lúc bấy giờ chưa có micro!


4. NGƯỜI BẠN ĐỜI TƯƠNG LAI
          Cô Trịnh Thị Điền, người bạn đời thủy chung tương lai của ông Đỗ Đình Thiện, sinh năm 1912 (Nhâm Tý) tại Hà Nội. Nguyên quán ở làng Tử Dương, huyện Thường Tín, Hà Tây. Thân phụ cô Điền là cụ Trịnh Hà, lang y, thân mẫu là cụ Ngô Thị Quảng, thương gia. Cô Điền có hai người anh cùng cha khác mẹ, con mẹ cả Nguyễn Thị Hưởng, là ông cả Đỉnh (Trịnh Kim Đỉnh) và ông thông Khánh (Trịnh Kim Khánh). Ông cả Đỉnh có 8 người con trong khi ông thông Khánh không có con. Cụ Quảng sinh hạ được 10 người con, trong đó cô Điền là thứ 10 và là người con duy nhất nuôi được (!). Chuyện kể rằng, hồi còn nhỏ, có lần cô bé Điền ốm nặng, tưởng không qua khỏi, cụ Trịnh Hà hết sức đau khổ, thất vọng, bế con trên tay mà than rằng: “Cha làm nghề thuốc mà không cứu nổi con!”. Sau khi sinh cô Điền, cụ Quảng, nghe theo lời bói toán, đã bỏ nhà ra đi biền biệt, buôn bán ở các tỉnh miền ngược, thỉnh thoảng mới về thăm con, vì sợ ở gần sẽ “sát con” (!). Thế rồi, khi cô Điền lên bốn, thì cả hai cụ Trịnh Hà và Ngô Thị Quảng đều lần lượt lâm bệnh ra đi cách nhau chưa đầy một tháng (!). Theo lời trăn trối của mẹ, cô Điền về sống với vợ chồng ông thông Khánh. Ông Khánh, lớn hơn em nhiều, rất thương yêu em hoàn cảnh côi cút.



                                    
                                            Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện – Sài Gòn 1936

          Cô Điền ngay từ khi còn nhỏ đã được chị dâu sai bảo, dạy dỗ trong công việc nội trợ. Vì còn bé, mà bếp lại cao, nên cô thường phải bắc ghế đứng lên để nấu cơm…Cô Điền được anh chị cho đi học, nhưng chỉ hết certificat[3] thì thôi để ở nhà giúp việc gia đình.
          Tháng 1-1929, sau khi đã hứa hôn với ông Thiện và ông Thiện đã du học Pháp được 2 năm, qua sự giới thiệu của người em họ là ông Ngô Đình Mẫn[4], cô thiếu nữ Hà thành Trịnh Thị Điền gia nhập Đảng Cộng sản Tân Việt, tham gia hoạt động trong chi bộ Phố Huế cùng các đồng chí Nguyễn Tạo, Nguyễn Tuấn Thức và Nguyễn Trọng Đàm.
          Năm 1930, sau khi 3 đảng cộng sản hợp nhất thành Đảng Cộng sản Đông Dương, theo gợi ý của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, cô Điền đã thoát ly gia đình tham gia công tác cách mạng ở Hải Phòng, Hồng Gai, Hà Nội.
          Tháng 2 năm 1931 cô Điền bị thực dân Pháp bắt ở Hải Phòng, bị tra tấn dã man ở Sở mật thám Hải Phòng và Hà Nội. Cô Điền đã dũng cảm chịu đựng, không cung khai, và đã tuyệt thực 7 ngày để phản đối việc tra tấn, ngược đãi đối với phụ nữ. Không khai thác được gì, không có đủ bằng chứng, tháng 11-1931 thực dân Pháp đã phải trả tự do cho cô. Chính trong thời gian bị giam giữ này, cô Điền đã quen biết các nhà cách mạng như Nguyễn Lương Bằng, Lê Duẩn, v.v… Trước lúc cô Điền được thả, một đồng chí công nhân cùng bị tù đã nhắn nhủ:
          “Rồi đây Mười[5] cũng sẽ được về,
          Gia đình quản thúc, nghĩ mà ghê!
          Tinh thần vô sản Mười nên nhớ,
          Đừng vì phú quý mà quên đi!”



Ảnh: Cô Trịnh Thị Điền
 thời kỳ bị bắt giam và tra tấn tại Sở mật thám Hà Nội (tháng 2 đến tháng 10 – 1931), mang số tù 168834.
Ảnh sao từ hồ sơ lưu của Sở mật thám Hà Nội.
 
         

        









  Sau khi ra tù, cô Điền đã nhiều lần tiếp tế cho các đồng chí còn bi giam. Nói riêng, cô đã gửi 2 lưỡi cưa sắt vào khu biệt giam ở nhà thương Phủ Doãn để các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Tạo… tổ chức cuộc vượt ngục trong đêm Noël 1931.

5. LÀM KINH TẾ VÀ BÍ MẬT ỦNG HỘ CÁCH MẠNG (1932-1945)

Làm kinh tế
Năm 1932, sau khi ông Đỗ Đình Thiện bị trục xuất từ Pháp về, và cô Trịnh Thị Điền ở tù ra, thủy chung với lời hẹn ước năm xưa, họ làm đám cưới, cố tình không đăng ký kết hôn để tỏ thái độ bất hợp tác với chính quyền đương thời.
          Bị quản thúc chặt chẽ, không trực tiếp hoạt động cách mạng được, ông bà Đỗ Đình Thiện chuyển sang làm kinh tế, trước tiên là để nuôi sống gia đình, sau đó là để ủng hộ cách mạng khi có thời cơ. Thực tế hoạt động đã cho họ hiểu rằng, để làm cách mạng cũng cần phải có tiền: Có đồng chí, trong hoàn cảnh đặc biệt, chỉ vì eo hẹp về tài chính mà rơi vào tay giặc, thậm chí bị tù đầy nhiều năm. Sau những năm đầu đầy khó khăn và không ít lần thất bại, bằng chữ tín, trí thông minh và lòng qủa cảm, họ đã thành công. Đến đầu những năm 40, ông bà Đỗ Đình Thiện đã trở nên giầu có nổi tiếng Hà Thành với tiệm buôn tơ Cát Lợi ở 54 Hàng Gai, Hà Nội, nhà máy dệt ở Gia Lâm, đồn điền cà phê Chi-nê, Hòa Bình…


                                    Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện, Sài Gòn - 1936
         
Đồn điền Chi-nê do hai chú cháu điền chủ người Pháp H. Borel khởi tạo và khai khẩn trong 40 năm. Đồn điền có chiều dài khoảng 13km và chiều rộng khoảng 9km. Sau khi tham khảo ý kiến và được sự khuyến khích của ông Nguyễn Lương Bằng, năm 1943 ông bà Đỗ Đình Thiện đã mua đồn điền này với giá một triệu đồng Đông Dương (tương đương 2000 lượng vàng). Sản phẩm chính của đồn điền là cà-phê. Đồn điền có 2000 mẫu ruộng, và cũng chăn nuôi nhiều gia súc, chủ yếu để lấy phân bón cà-phê (năm 1943, đồn điền có khoảng 4000 trâu, bò, cừu, dê).



Ảnh: Đồn điền Chi-nê, xã Cổ Nghĩa, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình
Ảnh chụp từ trên máy baynăm 1940


Thời kỳ Mặt trận bình dân
          Trong thời kỳ Mặt trận bình dân (1936-1939), ông bà Đỗ Đình Thiện tham gia hoạt động cho báo “Le Travail” (Lao động), vận động bầu người của Đảng vào Viện Dân biểu, ủng hộ tiền cho phong trào. Ông Trịnh Văn Phú, nguyên Chủ nhiệm báo Le Travail, nguyên đại biểu Viện Dân biểu Bắc kỳ (do Đảng đưa ra tranh cử), nguyên Trưởng ban Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chứng nhận:
          “Ông Đỗ Đình Thiện, nhà ở phố Nguyễn Du số 76 Hà Nội, nay đã mất, trước có hoạt động cách mạng ở Pháp.
          Sau về nước, trong những năm 1936-1939, có tham gia phong trào mặt trận nhân dân, lúc bấy giờ tích cực ủng hộ và cổ động cho báo trí cách mạng, bầu cho đại biểu đoàn thể vào trong các viện dân biểu và hội đồng thành phố. Tham gia các hoạt động của các hội quần chúng bấy giờ.”
          “Đồng chí Trịnh Thị Điền, nguyên cán bộ Ngân hàng Nhà nước, hiện về hưu trí ở số nhà 76 phố Nguyễn Du, trước đây trong hồi Mặt trận Bình dân 1936-1939, có tham gia công tác Mặt trận, tích cực vận động nhân dân trong cuộc bầu cử dân biểu và tận tình giúp đỡ tài chính ủng hộ tờ báo nói trên do tôi phụ trách”.

                      
Ảnh: Một nhóm cộng tác viên của báo “Le Travail”, trong đó có: Đỗ Đình Thiện (thứ hai bên trái), Vũ Đình Huỳnh, Trịnh Văn Phú, Nguyễn Thế Truyền, Trần Đình Long, Phan Tư Nghĩa …
Khi thoái trào Mặt trận Bình dân, nhiều bạn bè đồng chí của ông bà Thiện bị bắt trở lại. Ông Thiện đã chuẩn bị sẵn một chiếc ba lô trong có 2 bộ quần áo để có thể “đi căng”[6] bất cứ lúc nào! May mắn là điều đó đã không xảy ra.
Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện (áo dài đen) với các bạn tại Sở thú Sài Gòn1936
 
  
                                                            













Năm 1943
Năm 1943, ông Nguyễn Lương Bằng vượt ngục Sơn La, bắt liên lạc qua ông Vũ Đình Huỳnh, rồi giả làm một người buôn tơ  đến nhà riêng ông bà Đỗ Đình Thiện ở 54 Hàng Gai, Hà Nội. Ông Nguyễn Lương Bằng cho biết Đảng đang rất khó khăn về tài chính. Ông bà Đỗ Đình Thiện đã trao trực tiếp cho ông Nguyễn Lương Bằng số tiền ba vạn đồng Đông Dương. Sau này, năm 1972, trong một lần tiếp bà Thiện tại nhà riêng, đồng chí Trường Chinh, khi nhắc lại sự việc này, đã nói: “Khi nhận được số tiền 3 van đồng anh chị gửi cho qua anh Nguyễn Lương Bằng, quỹ Đảng chỉ còn 24 đồng.”
Biên niên sử Hoạt động tài chính của Đảng Cộng sản Việt Nam[7] ghi nhận:
“Quỹ của Trung ương Đảng lúc bàn giao cho đồng chí Nguyễn Lương Bằng chỉ còn 24 đồng Đông Dương.”
          “Vợ chồng đồng chí Đỗ Đình Thiện buôn bán tơ lụa ở phố Hàng Gai, qua đồng chí Nguyễn Lương Bằng, ủng hộ 30 000 đồng Đông Dương.”

Ảnh: Bìa sách “Biên niên sử Hoạt động tài chính của Đảng cộng sản Việt Nam”
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia -  2000
 
                       

         







 





Cùng năm ấy, ông Nguyễn Tạo vượt ngục Ban Mê Thuột. Ông bà Đỗ Đình Thiện đã trao cho ông Nguyễn Tạo hai vạn đồng Đông Dương.

 
Ảnh: Giấy chứng nhận của ông Nguyễn Tạo, Phó chủ nhiệm Ủy ban Nông nghiệp Trung                       ương
 
                                                                      
















Ông Nguyễn Tạo ghi nhận:
          “Năm 1943 tôi vượt ngục Ban Mê Thuột ra tới Hà Nội; đồng chí Trịnh Thị Điền lại liên lạc cho tôi hai vạn đồng Đông Dương để tổ chức hoạt động cách mạng.”
          Đầu năm 1945, khoảng tháng 1-2, khi nhận được thư của ông Nguyễn Lương Bằng cho biết Đảng đang rất cần tiền, bà Thiện đã viết giấy nhờ ông Vũ Đình Huỳnh đến một hãng buôn chủ là người Hoa, bạn hàng của bà Thiện, lấy 100.000 đồng Đông Dương để chuyển cho ông Nguyễn Lương Bằng[8]


6. NHỮNG NĂM ĐẦU CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG (1945-1947)

Nghị định số 1
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 3 hiện còn giữ được nguyên bản Nghị định số 1, ngày 1-9-1945, của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cử ông Đỗ Đình Thiện làm ngân phiếu (số 26577 ngày 3-9-1945) rút ở Ngân hàng Đông Dương số tiền 2.500.000 đồng Đông Dương để “chi về việc khẩn cấp”. Không biết đích xác số tiền này đã được chi vào những việc gì. Chỉ biết rằng lúc đó Ngân hàng Đông Dương tìm mọi cách cản trở Chính phủ ta rút tiền. Do đó đã phải cử ông Đỗ Đình Thiện đứng danh nghĩa cá nhân làm việc này.


Ảnh: Nghị định số 1, ngày 1-9-1945, của Chính phủ lâm thời
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

 
   
















Qũy Độc lập và Tuần lễ Vàng
          Chỉ hai ngày sau Lễ Độc lập, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành Quốc lệnh số 4, ngày 4-9-1945, lập Quỹ Độc lập và cử ông Đỗ Đình Thiện làm phụ trách tại Quỹ Trung ương ở Hà Nội. Tuần lễ Vàng cũng được tổ chức trong khuôn khổ của Quỹ Độc lập.

                   
           Ảnh: Quốc lệnh số 4, ngày 4-9-1945, của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
              về việc lập Quỹ Độc lập. Bản gốc lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 3.












Sách “60 năm Tài chính Việt Nam 1945-2005”[9] viết:
          “Theo báo cáo tổng hợp của Bộ Tài chính ngày 20/5/1948 thì Quỹ Độc lập đã thu được trên 20 triệu đồng Đông Dương, Tuần lễ Vàng đã động viên được khoảng 370 kg vàng, tương đương số thuế thu được trong một năm dưới chế độ cũ ở nước ta.”

Ảnh: Bìa sách “60 năm Tài chính Việt Nam 1945-2005”
Nhà xuất bản Tài chính -2005
 
         
















Ông bà Thiện đã tích cực vận động nhân dân, đặc biệt là giới công thương, đóng góp cho Quỹ Độc lập và Tuần lễ Vàng. Bản thân ông bà Đỗ Đình Thiện đã gương mẫu đóng góp 100.000 đồng Đông Dương vào Quỹ Độc lập, và 100 lượng vàng trong Tuần lễ Vàng.
          Trong dịp Tuần lễ Vàng, một tờ báo đã đăng mẩu tin sau đây, được vợ chồng GS. Trương Công Quyền chép lại, tặng cho gia đình Đỗ Đình Thiện. Có ý kiến cho rằng mẩu tin này do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh viết.
          “7-10-1931 một sinh viên tòng học năm thư 3 Đại học Khoa học ở Toulouse bị bắt ở ga Matabiau vì tặng bánh mỳ có truyền đơn nhét vào trong ruột cho binh lính Việt Nam mãn hạn lên tầu về nước. Truyền đơn này xúi dục binh lính một khi trở về nước thì bất tuân thượng lệnh và hưởng ứng phong trào cách mạng. 19-11 năm đó, sinh viên ấy bị tòa án Toulouse phạt 4 tháng tù, sau khi nhận hoàn toàn trách nhiệm về việc mình làm, nhưng không chịu khai ai là đồng phạm. Sinh viên ấy, một đảng viên cộng sản, tên là Đỗ Đình Thiên, người mà ai nấy đều biết tiếng về Tuần lễ Vàng vừa rồi.”


Mua đấu giá tranh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh
          Hồi đó, nhằm biểu thị lòng tin tưởng của nhân dân đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh, chống lại những âm mưu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch, đồng thời tăng ngân sách cho chính quyền cách mạng, một cuộc bán đấu giá bức chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được tổ chức vào ngày bế mạc Tuần lễ Vàng 23-9-1945. Ông Đỗ Đình Thiện là người trả giá cao nhất (cao tuyệt đối), và đã mua bức tranh này với giá một triệu đồng Đông Dương. Ngay sau khi mua, ông Thiện tuyên bố tặng bức chân dung này cho UBHC thành phố Hà Nội. Thế là cuộc đấu giá biến thành một đám rước chân dung Hồ Chủ tịch về treo ở trụ sở UBHC thành phố Hà Nội. Sự kiện này đã gây tiếng vang lớn thời bấy giờ.

Ảnh minh họa: Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ký họa của Trần Đình Thọ, in trên các báo Chiến sỹ, Quốc hội, …
trong những năm 1945-1946
 
         

        














  Một tuần trước khi cuộc đấu giá diễn ra, tờ Dân chủ[10], ngày 18-9-1945, đã đăng bài:
          “Ai sẽ mua được?
          Bức chân dung của cụ Hồ Chủ tịch sẽ đem bán đấu giá  trong ngày bế mạc Tuần lễ Vàng (23-9-45).
          Bức chân dung duy nhất của bậc ái quốc lão thành sẽ về tay ai? Nhà triệu phú cứu quốc nào sẽ có hân hạnh được mang bức chân dung kính mến đó về?
          Hiện nay trong một bữa tiệc, một nhà hào phú ái quốc ở Hà-Thành đã tuyên bố trước mặt ông Bộ trưởng bộ Tài chính sẽ nhất định mua với giá một triệu đồng (1.000.000 đ).
          Các nhà triệu phú Bắc Liêu nghĩ sao?
          Các nhà triệu phú ẩn danh khác ở toàn quốc nghĩ sao?”

Ảnh: Bài phỏng vấn ông Đỗ Đình Thiện trên báo Quốc hội, số 3 ngày 19-12-1945
 
         











tờ Quốc hội[11], ngày 19-12-1945, đã có bài phỏng vấn ông Đỗ Đình Thiện với lời đề tựa:
          “Một buổi tối chúng tôi lại tìm ông Đỗ Đình Thiện tại nhà riêng. Trước khi vào thẳng vấn đề, chúng tôi có hỏi qua tiểu sử ông. Ông khiêm tốn trả lời: “Lúc đi học làm cách mạng, ra đời kinh doanh kỹ nghệ và nông nghiệp, tham gia vào công cuộc xã hội”. Nhưng ai người đã quên ngay được nhà triệu phú trẻ tuổi đã từng tham gia vào phong trào vận động dân tộc giải phóng và gần đây đã có lần bỏ tiền triệu mua bức ảnh Hồ Chủ tịch để giúp Quỹ Độc lập hiện nay vẫn do ông đảm nhiệm.”
          Trong dịp bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên, tờ Cứu quốc[12], ngày 5-1-1946, đưa tin:
          “Gần đây chúng ta phần nhiều biết tên tuổi ông Đỗ Đình Thiện vì: ông là nhà triệu phú đã quyên vàng vào Tuần lễ Vàng. Ông đã giúp Chính phủ và mua bức chân dung của vị Chủ tịch với số bạc triệu.”
          GS. Trần Văn Giầu nhớ lại[13]:
          “Ông Thiện là đại tư sản Hà Nội, bạn học cũ của tôi tại Pháp. Ngày ấy, để ủng hộ cách mạng, giúp đất nước, ông Thiện đã bỏ ra một triệu đồng tiền Đông Dương để mua tấm chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh.”
          Chuyện kể rằng, tổ chức gợi ý đưa ông Thiện ra ứng cử tại Nam Định để tham gia vào Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tháng 1-1946). Ông Thiện đã từ chối, nói rằng ông không có nguyện vọng vào Quốc hội, nhưng ông sẽ tự ra ứng cử tại Hà Nội để cổ vũ phong trào. Kết quả ông là người có số phiếu bầu khá cao sau 6 người trúng cử tại Hà Nội. Không ra ứng cử tại Nam Định, nhưng ông Thiện đã nhận trách nhiệm hộ tống cụ Nguyễn Văn Tố đi tranh cử thắng lợi ở Nam Định.


“Nhà khách Chính phủ”
          Nếu như trước cách mạng tháng 8, nhà riêng ông bà Đỗ Đình Thiện, tại 54 Hàng Gai, Hà Nôi, đã từng là cơ sở cưu mang cán bộ cách mạng, thì trong những năm 1945-46 nơi đây đã trở thành “Nhà khách Chính phủ”. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng và Chính phủ, như các ông Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Bùi Lâm, Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Phạm Văn bạch, Trần Văn Giàu, Phạm Ngọc Thạch …, đã thường xuyên qua lại, làm việc, tiếp khách, nghỉ ngơi, may quần áo... Nhiều cán bộ từ miền Nam ra, trong đó có Phái đoàn Nam bộ, và Phái đoàn Phụ nữ Nam bộ đã được đón tiếp rất chu đáo tại đây. Bác Hồ cùng ông Võ Nguyên Giáp cũng đã từng nghỉ đêm tại ngôi nhà này, vì lúc đó Bác phải thay đổi chỗ ở thường xuyên để đảm bảo bí mật. Bà Thiện đã làm cơm để Bác Hồ tiếp cụ Huỳnh Thúc Kháng tại nhà 54 Hàng Gai. Bà Thiện cũng được giao nhiệm vụ làm tiệc để Bác Hồ tiếp Cựu hoàng Vĩnh Thụy và Hoàng thân Xuphanuvông (Lào) tại phòng khách tầng hai tòa nhà Bắc bộ phủ, và tiếp các vị tướng tầu Tưởng là Tiêu Văn và Lư Hán tại 58 Nguyễn Du…

Hội đồng quản trị Đại học
          Những năm đầu của chính quyền cách mạng, ông bà Thiện tham gia vào nhiều hoạt động xã hội. Bà Thiện tham gia công tác vận động công thương, phụ nữ và đã được bầu là ủy viên BCH Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam từ 1946 đến 1955. Ông Thiện, ngoài công việc của Quỹ Độc lập, còn tham gia nhiều việc khác: Chủ tịch ủy ban hành chính khu Hoàn Kiếm, ủy viên Hội Cứu đói Trung ương, Giám đốc Ngũ cốc công ty, Phó giám đốc Công thương ngân hàng …
          Ông Nguyễn Hữu Đang[14] kể lại rằng, ông Thiện đã tài trợ tiền cho việc tổ chức một lớp đào tạo hàng trăm cán bộ thanh niên trong thời gian 3 tháng do ông Đang phụ trách. Ông Thiện cũng chính là người tài trợ một vạn đồng Đông Dương cho giải thưởng Mỹ thuật đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Giáo dục Đại học được Chính phủ quan tâm từ rất sớm. Ông Thiện là một thành viên của Hội đồng quản trị đại học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:  
“Theo nghị định của Bộ trưởng bộ Quốc-gia Giáo-dục ngày 31-12-1945:
Cử những vị sau này vào Hội đồng quản-trị Đại-hoc:
Các ông:
- Vĩnh Thụy, cố-vấn Chính phủ,
- Trần Văn Cẩn, giáo-sư ban Mỹ-thuật trường Đại-học,
- Phạm Văn Đồng, giáo sư lớp Chính-trị Xã-hội trường Đại-học,
- Hoàng Xuân Hãn, giáo sư ban Khoa-học trường Đại-học,
- Phạm Khắc Quảng, giáo-sư ban Y-khoa trường Đại-học,
- Phạm Ngọc Thạch, bác-sĩ ở Nam-bộ,
- Đỗ Đình Thiện, thương-gia ở Bắc-bộ,
- Hồ Hữu Tường, giáo-sư ban Văn-khoa trường Đại-học.”[1]


[1] Việt-Nam Dân-quốc Công-báo ngày 19-1-1946

  Ảnh: Việt Nam Dân quốc Công báo ngày 19-1-1946, trang 2




7. THÁP TÙNG HỒ CHỦ TỊCH ĐI PHÁP NĂM 1946
          Ngày 24-3-1946, trong buổi gặp gỡ tại vịnh Hạ Long, Thượng sứ D’Argenlieu chuyển lời mời Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Cộng hòa Pháp vào hạ tuần tháng 5-1946.
          Một hôm, ông Nguyễn Lương Bằng đến 54 Hàng Gai, Hà Nội, thông báo cho ông Đỗ Đình Thiện:
- Bác muốn anh tháp tùng Bác đi Pháp. – ông Bằng nói.
- Tôi có thể không đi được không? – ông Thiện hỏi lại.
- Nếu anh tìm được người đủ tin cậy thay anh đi với Bác thì anh có thể ở lại. – ông Bằng trả lời. Và thế là ông Thiện đã nhận nhiệm vụ này.
          Tháp tùng Bác từ Hà Nội trong chuyến đi này có: ông Đỗ Đình Thiện, thư ký (Văn phòng Chủ tịch), và ông Vũ Đình Huỳnh, sĩ quan cận vệ (Võ phòng Chủ tịch). Tới Pháp, Văn phòng của Chủ tịch được bổ sung thêm bác sỹ Lê Văn Cưu (Việt kiều Pháp) và Võ phòng được bổ sung thêm ông Phạm Ngọc Xuân (Việt kiều, đại úy hải quân trong quân đội Pháp). Ngoài ra còn một số việt kiều, trong đó có Phạm Huy Thông, Mai Thứ, Nguyễn Viết Ty, Phương Tiếp … trợ giúp công việc của đoàn.
Mặc dù Hồ Chủ tịch được mời với tư cách thượng khách của Chính phủ Pháp, chuyến đi ngoại giao này rõ ràng đầy bất trắc, hiểm nguy, “lành ít, dữ nhiều”.


Tới Pháp, Hồ Chủ tịch lưu lại Biarritz 10 ngày để chờ người Pháp lập chính phủ mới. Trong thời gian này Người đã tranh thủ tiếp xúc với nhiều tổ chức, cá nhân người Pháp cũng như người Việt sống tại Pháp, đi thăm một số nơi trong vùng.



Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và các tùy tùng trên bờ biển Biarritz.
(Người đứng đối diện với Hồ Chủ tịch là ông Đỗ Đình Thiện)




Ngày 22-6-1946, từ Biarritz, Hồ Chủ tịch đáp máy bay tới sân bay Bourget, Paris, thực hiện chuyến thăm chính thức CH Pháp theo lời mời của Chính phủ Pháp. Hồ Chủ tịch được đón tiếp trọng thể theo đúng nghi thức dành cho nguyên thủ quốc gia.     Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Marius Moutet, đại diện Chính phủ Pháp, ra tận chân cầu thang máy bay đón và hướng dẫn Hồ Chủ tịch trong các nghi thức ngoại giao.



Ảnh: Bước xuống khỏi máy bay, sau khi chào quốc ca hai nước và duyệt binh danh dự, Chủ tịch Hồ Chí Minh có lời tuyên bố vắn tắt tại sân bay trước các quan chức, sỹ quan Pháp, Việt ra đón Người, cùng phóng viên nhiều hãng thông tấn, báo chí chờ sẵn ở đó. Trong ảnh có thể nhìn thấy M. Moutet (bên trái Hồ Chủ tịch), Phạm Văn Đồng (đứng sau Hồ Chủ tịch), Đỗ Đình Thiện và Lê Văn Cưu (giữa ảnh), Vũ Đình Huỳnh (đội ca lô mầu sáng).



          Lễ đón tiếp chính thức Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn ra từ ngày 2 đến ngày 4-7-1946 tại Paris theo nghi thức ngoại giao. Ông Đỗ Đình Thiện cùng các thành viên khác trong đoàn tùy tùng (Vũ Đình Huỳnh, Lê Văn Cưu, Phạm Ngọc Xuân) đã tháp tùng Chủ tịch Hồ chí Minh trong các nghi thức trọng thể này.                                                                                                    



Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh duyệt binh danh dự trong sân Dinh Thủ tướng (14 Saint Dominique) trước khi vào dự tiệc do Thủ tướng Chính phủ lâm thời CH Pháp G. Bidault chiêu đãi Người ngày 2-7-1946. Bên trái Hồ Chủ tịch là: M. Moutet, Trần Ngọc Xuân, J. Dumaire, J. Sainteny và Đỗ Đình Thiện.
        



       

Ảnh:  Thủ tướng G. Bidault và Hồ Chủ tịch chụp ảnh kỷ niệm tại cửa dinh Thủ tướng (14 phố Saint Dominique) sau bữa tiệc Thủ tướng chiêu đãi Hồ Chủ tịch ngày 2-7-1946. Từ trái sang: Phạm Ngọc Xuân, G. Bidault, J. Sainteny, Hồ Chủ tịch, Đỗ Đình Thiện.



           
Ảnh: Thiếp mời dự tiệc do Thủ tướng Chính phủ lâm thời CH Pháp G. Bidault chiêu đãi Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Dinh Thủ tướng (14 Saint Dominique), vào hồi 13 giờ 15 ngày 2-7-1946



                 
Ảnh: Vị trí chỗ ngồi của ông Đỗ Đình Thiện tại bàn tiệc do Thủ tướng Chính phủ lâm thời CH Pháp G. Bidault chiêu đãi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 2-7-1946


      
Ảnh: Ngày 3-7-46, Hồ Chủ tịch đặt vòng hoa ở Đài Chiến sỹ vô danh dưới Khải hoàn môn, Paris. Người mặc binh phục đứng phía sau bên trái Hồ Chủ tịch là tướng Gentilhomme. Người đứng phía sau bên phải Hồ Chủ tịch là ông Đỗ Đình Thiện.


              
               
Ảnh: Thiếp mời dự tiệc Chủ tịch Hồ Chí Minh chiêu đãi Thủ tướng Chính phủ lâm thời CH Pháp tại khách sạn Royal Monceau (35, Avenue Hoche), vào hồi 20 giờ 15 ngày 4-7-1946.


                   
Ảnh: Thiếp mời dự lễ đón tiếp và tiệc trà do Chủ tịch và các thành viên Hội đồng thành phố Paris chiêu đãi Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào hồi 16 giờ 45 ngày 4-7-1946.


Ảnh: Ngày 4-7-1946 Chủ tich Hồ Chí Minh cùng các tùy tùng (Đỗ Đình Thiện, Lê Văn Cưu, Vũ Đình Huỳnh) tới đặt vòng hoa tại Đài Trận vong chiến tranh 1939-45.

Lịch trình làm việc của Hồ Chủ tịch bốn tháng ở Pháp (22/6 – 17/9/1946) đã được ông Đỗ Đình Thiện ghi chép trong một cuốn Nhật ký[16] mà bản gốc hiện lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

    
Ảnh:  Trang đầu “Nhật ký làm việc của Hồ Chủ tịch bốn tháng ở Pháp (22-6-1946 đến 17-9-1946)”    do ông Đỗ Đình Thiện ghi. Bản gốc hiện lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam
         
Cuốn Nhật ký cho thấy, cùng với việc thực hiện các nghi lễ ngoại giao, Hồ Chủ tịch đã có rất nhiều cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với các tổ chức, báo chí, đảng phái, cá nhân trong đó có những danh nhân thế giới như vợ chồng nhà bác học Joliot Curie, danh họa Picasso, đại văn hào Ilya Ehrenbourg …Thực ra thì nhiều người trong số họ đã từng là bạn của Bác ngay từ thời kỳ Bác hoạt động cách mạng ở Pháp. Rõ ràng, phải ở một tầm trí tuệ và văn hóa như thế nào thì mới có thể kết bạn và giữ được tình bạn với những con người như thế.
          Ngoài trách nhiệm thư ký, người ta thấy ông Thiện chính là người quan tâm, chăm lo sinh hoạt, sức khỏe của Hồ Chủ tịch. Tài liệu của Sở cảnh sát Paris đã không bỏ sót chi tiết nào về những lần ông Thiện đưa Bác đi bệnh viện khám mắt, kiểm tra sức khỏe, hoặc ông Thiện vào nhà băng Indochine rút tiền…

   Ảnh: Hồ Chủ tịch tiếp đại biểu Thanh niên Dân chủ Pháp trong vườn nhà ông bà R. Aubrac. Người ngồi  phía sau bên phải Hồ Chủ tịch là ông Đỗ Đình Thiện
                   
Giữa thủ đô Paris hoa lệ, trong khách sạn Royal Monceau sang trọng, bộn bề trăm công nghìn việc, Bác vẫn luôn giữ một nếp sinh hoạt ung dung, điều độ và giản dị. Ông Đỗ Đình Thiện đã từng cảm kích kể lại kỷ niệm sau đây:
          Sáng sáng, Bác dùng bột than củi mang từ nhà đi để đánh răng. Ông Thiện, nghĩ rằng Bác tiết kiệm, hơn nữa cũng lo không tiện về ngoại giao, đã lẳng lặng giấu hộp bột than của Bác đi, và để thay vào đó một tuýp thuốc đánh răng. Sáng dậy, Bác cứ loay hoay đi tìm, ông Thiện giả bộ nói: “Thưa Bác mất rồi thì thôi, mời Bác dùng thuốc đánh răng”. Bác nói: “Không phải mình hà tiện đâu, nhưng mình quen mất rồi, đánh bằng thuốc mình cứ hay bị lợm giọng!”. Thế là sáng hôm sau, vừa thương Bác vừa cảm động, ông Thiện đành lẳng lặng đặt trả lại Bác hộp bột than đánh răng.
Ông bà Thiện đã công phu gìn giữ, bảo quản trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp gần 100 bức ảnh về chuyến đi Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946. Hiện còn 86 bức mà bản gốc được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 3. Điều lý thú là phần lớn mặt sau các bức ảnh này đều có lời ghi chú của ông Đỗ Đình Thiện giải thích nội dung các sự kiện trong ảnh.
Cũng suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, ông bà Thiện đã cẩn trọng, gìn giữ, bảo quản lá cờ đỏ sao vàng, có tua kim tuyến mầu vàng, dùng cắm trên ôtô của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những nghi lễ chính thức  ở Pháp. Sau hòa bình lập lại, ông bà Thiện đã trao lá cờ này cho ông Phạm Xuân Thiều đưa về lưu giữ, và đã có thời gian trưng bày, tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.
Cuộc hội đàm chính thức giữa phái đoàn Việt Nam, do ông Phạm Văn Đồng dẫn đầu, và phái đoàn Pháp đã không đạt được thỏa thuận nào. Phái đoàn Việt Nam về nước, Hồ Chủ tịch đã ở lại, cố gắng ký với M. Moutet, Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại, bản Tạm ước 14-9-1946 nhằm kéo dài những ngày hòa bình để có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến.
Những dòng sau đây trong Nhật ký[17] do ông Đỗ ĐìnhThiện ghi đã phản ảnh phần nào những hoạt động bận rộn, căng thẳng, khẩn trương của Hồ Chủ tịch trong những ngày cuối cùng ở Paris:

14-9-46
-17g Cụ đi gập ô. Moutet[18].
-18g Cụ đi gập ô. Bidauld[19].
-19g45 Cụ về khách sạn.
-12g rưỡi đêm Cụ đi gập ô. Moutet.”

15-9-46
- 16g ô. Mesmer tới đưa giấy Cụ Chủ tịch ký vào hồi gần 5 giờ, có a. Giám[20] ở đấy.
- 17g30 Cụ đi nói truyền thanh Pháp và Việt nghe.
- 19g20 ô.b. Sainteny[21] đến chào Cụ.”

16-9-46
Sáu ngày nay, Cụ bận suốt ngày đêm (tiếp khách đến thăm chào, đi thăm chào và thứ nhất đi công việc). Anh em trong Tùy tùng thu dọn tài liệu, đóng đồ đạc để gửi đi, đem về, viết thư, gửi thiếp chào và cáo từ các nhà chức trách, các người thân biết. Suốt ngày đêm, công việc, khách khứa tấp nập, rộn rịp.
Đêm 15, anh em thức đến 2g sáng và Cụ 3g sáng, mà sáng nay 5g đã dậy sửa soạn ra ga.
6g30, Cụ đi Hôtel Ste Anne để gập anh Mai[22], 7g30 Cụ về giục đi ngay kẻo trễ, bỏ cả ăn sáng.
Bẩy xe hơi đi ra ga Lyon. 7g50 tới ga…”
         
Ảnh: Việt kiều và các bạn Pháp lưu luyến tiễn Hồ Chủ tịch tại ga xe lửa Lyon - Paris, sáng 16-9-1946. Bên phải Hồ Chủ tịch là ông Đỗ Đình Thiện, bên trái Người là ông Vũ Đình Huỳnh. Ảnh đăng trên báo của Việt kiều tại Pháp.

Ảnh: Trên tầu hỏa từ ga Lyon đi quân cảng Toulon để về nước bằng tầu thủy. Ngồi:  Hồ Chủ tịch và J. Sainteny ; Đứng (từ trái sang): Đỗ Đình Thiện, Vũ Đình Huỳnh, Lê Văn Cưu,

Ngày 18-9-1946 Hồ Chủ tịch cùng đoàn tùy tùng dời quân cảng Toulon về nước, trên chiếc thông báo hạm Dumont d’Urville, có trang bị cả đại bác 155 ly, pháo liên thanh cùng với 150 sĩ quan, thủy thủ Pháp do một viên đại tá chỉ huy.
Trong Hồi ký “Trở về với Tổ quốc kính yêu”[23], GS. Trần Đại Nghĩa viết: “Đoàn tùy tùng theo Bác về nước gồm 6 người: anh Đỗ Đình Thiện, thư ký của Bác; anh Vũ Đình Huỳnh, đại tá cận vệ (hai người này đi theo Bác từ Hà Nội); anh Võ Quý Huân, kỹ sư cơ khí - luyện kim; anh Trần Hữu Tước, bác sĩ; anh Võ Đình Quỳnh, kỹ sư mỏ - luyện kim và tôi với tên cũ Phạm Quang Lễ.”
“Hội nghị Fontainebleau không thành công, ảnh hưởng đến mối quan hệ Việt-Pháp, nghe đâu tình hình trong nước lúc đó đang căng thẳng. Khi đặt chân xuống tầu, tôi lo ngại một điều mà không dám nói ra: cuộc hành trình dài ngày, nếu nửa đường xảy ra chiến tranh ở trong nước, thì cả đoàn chúng tôi sẽ rơi vào cảnh “chim lồng cá chậu”, giải quyết, đối phó ra sao? Nhất là với Bác, hình ảnh và linh hồn của cách mạng Việt Nam.”
“…Trong cuộc hành trình, Bác có yêu cầu tầu đỗ lại bốn nơi để Bác ghé: vùng gần kênh đào Suez, Ceylan, Nha Trang và ngoài khơi Hải Phòng. Tại mỗi điểm ghé, chỉ có Bác cùng thư ký và bảo vệ lên bờ, còn bốn chúng tôi ở lại trên tầu. Bác đến đâu, gặp ai, làm gì? – tôi không tò mò tìm hiểu, lúc đó mọi người đều nghiêm túc như vậy…”

             

Ảnh:  Trên tầu thủy Dumont d’Urville, ngày 18-9-1946, trước khi tầu khởi hành về nước.
Từ phải sang: Hồ Chủ tịch, Trần Hữu Tước, một người Pháp, J. Sainteny, Trần Đại Nghĩa,
Lê Văn Cưu, Missoffe và Đỗ Đình Thiện

Trên đường về, từ cảng Saïd, ngày 22-9-1946 Bác đã gửi thư cho ông bà R. Aubrac, chủ nhà nơi Bác cùng Tùy tùng đã ở từ 28-7 đến 8-9-1946. Trong thư Bác không quên nhắc đến những người đồng hành với mình, trong đó có “Thiện” và “Huỳnh”, mà Bác gọi là “mes camarades”, nghĩa là “các đồng chí của tôi”.

Ảnh: Thư Hồ Chủ tịch gửi
ông bà R. Aubrac từ cảng Said
ngày 22-9-1946
Ảnh chụp từ tư liệu gia đình Aubrac, 5-2007
 
          

“Các bạn thân mến,
Từ lúc chúng tôi khởi hành, biển lặng, thời tiết tốt. Hàng ngày, tôi ngắm mặt trời mọc và lặn. Đó là một cảnh tượng hoành tráng và tuyệt đẹp.
Trên tầu, chúng tôi không có nhiều việc để làm. Chúng tôi đọc, nói chuyện, nghỉ ngơi, và nhớ các bạn.
Những người bạn mới của chúng tôi, các sĩ quan và thủy thủ, họ rất dễ mến.
Các đồng chí của tôi (Thiện, Huỳnh, và 4 người nữa mà các bạn chưa quen) và tôi, chúng tôi mạnh khỏe.
Tôi gửi tới các bạn những tình cảm thân thiết nhất. Tôi ôm hôn thắm thiết Jean Pièrre, Catherine và cháu bé gái thân yêu của tôi. Hôn Ginette. Gửi lời chào tới các bạn tôi Billoux, D’Astier, và những người khác.
      Hồ Chí Minh”.




Tai nạn xe hơi
          Ngày 17-7-1946, trong khi tháp tùng Hồ Chủ tịch đi thăm Normandie, xe ô-tô ông Thiện ngồi, mà lẽ ra Hồ Chủ tịch đã ngồi, nếu như xe của Người không chữa kịp vào giờ chót, đã bị tai nạn rất nặng: mất lái, xoay ngang, đâm vào một đống đá ven đường, lật ngửa lên, và quay ngang 3 vòng! Rất may ông Thiện đã thoát chết. Ba người khác ngồi cùng xe với ông Thiện đều bị thương phải vào nằm viện, chỉ riêng ông Thiện là có thể tiếp tục đi với đoàn. Trong Nhật ký[24] ông Thiện đã miêu tả chi tiết tai nạn này:
          17-7-46
Cuộc đi thăm Normandie đã dự định trước một tuần lễ. Thăm miền Normandie là nơi quân đồng minh Anh và Mỹ đã đổ bộ vào Pháp để đánh Đức. Nhân tiện ông Sainteny có nhà trại ở đấy nên mời Hồ Chủ tịch. Cụ nhận nhời nên mới có cuộc đi thăm chơi ngày nay.
Theo đúng chương trình thì khởi hành tại khách sạn (Paris) từ 9g30, nhưng gần đến lúc đi, xe của Chủ tịch hư điện, cần sửa chữa, nên sự khởi hành chậm mất một giờ và bắt đầu 10g30 mới lên xe. Ô. Missoffe thay ô. Sainteny đến đón Chủ tịch, còn ô. Sainteny sẽ đón và gặp Chủ tịch ở ngoài tỉnh.
Cụ Chủ tịch đi có tùy tùng (M. Huỳnh, Xuân, Cưu - bác sỹ, Mai Thứ - nhà chiếu bóng, Thiện) và 2 em nhỏ Jacqueline và Régine. Đi một quãng, ra đến ngoài tỉnh thì có xe ô. Sainteny đã đợi sẵn ở đấy, trong xe có 2 vợ chồng ô.b. Hertrich.
Hồ Chủ tịch ngồi xe thứ 2 với ô. Sainteny, a. Xuân và 1 em nhỏ , xe đầu có lính tự vệ với A.A. Cưu và Thứ. Kế đến xe thứ 3 có Thiện và 2 vợ chồng ô. Hertrich. Trong xe thứ tư có A.A. Huỳnh, Misoffe và 1 em  nhỏ.
Bốn xe bon bon chạy trên đường nhưa rộng rãi và tốt.
Tới Evreux, cách Paris 100 cây số, hồi 11g40. Xe vẫn chạy trên đường thẳng, nhơm nhớp ướt vì trước khi đi trời mưa và lúc đi đường cũng thỉnh thoảng có hột mưa. Xe đi cái nọ cách cái kia trên dưới 100 thước nên thường trông thấy nhau. Khi đi quá Evreux lối chừng 15 cây số thì xe thứ 3, trên có 2 vợ chồng ô. Hertrich và  Thiện ngồi, tự nhiên láng sang tay trái (quãng đường chỗ ấy thật thẳng và tốc lực độ 8, 90 một giờ), rồi không hãm nổi và cũng không lấy lại được tay lái. Thế là xe không chạy theo đường mà đâm chạy ngang hẳn sang vệ đường tay trái, húc vào một đống đá, rồi nhào mũi xe xuống, lật ngửa lên, và lăn ngang 3 vòng rồi đứng dậy. Rõ ràng trông thấy tai nạn sắp xẩy đến mà thật bất lực, không làm gì được. Tôi ngồi bên trái, và về phía tay phải tôi là ô. Hertrich, rồi phía đến là b. Hertrich. Tôi còn thấy rõ ô. Hertrich, thấy nguy đến nơi, hai tay bám chặt lấy đệm xe, còn tôi, chớp nhoáng thấy mình đợi sự nguy hiểm sắp xẩy đến, nhưng cũng chớp nhoáng nghĩ như những lúc thường nói chuyện về tai nạn ô tô: “Tốt hơn, khi đi xe hòm rủi ro gập tai nạn, thì cứ ngồi nguyên trong xe chớ đừng thử mở cửa để nhẩy ra ngoài”. Thoáng nghĩ thật nhanh như thế, nên tôi cứ ngồi thản nhiên để đợi sự may rủi đến. Nhờ thế mà thấy được cả thái độ người ngồi bên, và mình vẫn được tỉnh táo. Rồi không biết trong mấy giây đồng hồ, xe va vào đâu, đổ xuống lật lên thế nào, trong xe lục đục xẩy ra thế nào, lúc ấy tôi mê không còn biết gì hết. Cho đến khi xe lăn lộn mấy vòng rồi lại lật đứng dậy thì lúc ấy tôi lại bừng tỉnh dậy, thản nhiên tay mở cửa xe lấy, bước xuống bãi cỏ, thấy có người nằm dưới gầm xe nói léo nhéo, rồi lại có người nằm trong xe mà mấy người đang lay gọi. Chỉ nhận ra trong những người đang lay gọi có A. Huỳnh và người đang còn ngất là bà Hertrich đi xe với mình, và một ông cùng đi xe với mình máu me đầy mặt. Không mê nhưng cũng chưa tỉnh hẳn, nên tôi cũng phảng phất, chưa nhận định là một tai nạn mới xẩy ra. Khi mọi người đã khiêng được bà bị ngất ra ngoài xe, thì người nằm dưới xe vẫn nói: “Tôi không ra được, xe đè lên chân tôi, lấy kích mà nâng xe lên!”. Mới đầu, tôi tưởng là một người nào đi đường bị xe đâm vào, rồi dần dần mới nhận ra người nằm dưới gầm xe ấy chính là a. tài xế lái xe. Thấy anh ấy bảo nâng xe lên, tôi cũng đứng sát lại xe để cùng nâng xe lên, quên hẳn là nâng xe bằng tay thì nâng sao được! trong khi ấy, bác sỹ Cưu băng bó cho bà bị nạn thế nào tôi cũng không nhìn thấy và không biết làm lúc nào. Cho tới khi có người dắt đỡ tôi đến một cái xe khác rồi bảo trèo lên ngồi bên xế, tôi cũng cứ việc bước lên ngồi xe, chẳng hiểu ra sao và để làm gì. Xe chạy được một quãng tôi lại tỉnh hơn nữa hỏi tài xế: - Chúng ta đi đâu? – Đi nhà thương – À đi nhà thương. Nghe nói nhà thương, tôi ngoảnh lại sau xem thì thấy 2 vợ chồng ô. Hertrich , vợ băng bó, chồng cũng băng bó, và lại cả máu mê đầy mặt. Bụng nghĩ thầm đi nhà thương, sao đi nhà thương mà không có ai đi theo, trừ tài xế lái xe, nhỡ có ai nhẩy ra ngoài xe thì làm thế nào ? Có ý chê trách không có ai đi theo. Đến nhà thương người ta bảo tôi và ô. Hertrich ngồi thì ngồi, một tý thấy người ta khiêng cáng bà Hertrich vào. Tôi vẫn chưa hiểu có việc gì không! Người ta hỏi tôi có việc gì không, tôi bảo là không việc gì, - Có đau đâu không ? – Không. À, tôi có sước tay, sưng môi, chảy máu chân. Người ta bảo chỉ có thế thì không sao. Người ta đưa ô. Hertrich lên bàn, tôi cũng đi theo. Người ta cắt tóc cho ô. Hertrich và bôi thuốc và băng bó cho ô. ấy, ở mang tai bị vết rạch bằng ngón tay, và làm những gì nữa, tôi không nhớ rõ. Còn tôi, người ta hỏi có việc gì không, tôi bảo không việc gì nhưng cũng dơ tay bị sước, môi bị sưng và chân bị chẩy máu để họ bôi thuốc cho. Tôi lại còn thấy tay với mặt sao bẩn lắm, bảo cho tôi đi rửa mặt và rửa tay. Rửa xong ra, lại thấy tài xế cũng đang nằm trên bàn để người ta xem và băng bó cho. Một lát lại thấy tỉnh hơn nữa, đã biết rõ là đã xẩy ra tai nạn, đã biết lo thì câu hỏi đầu tiên còn dớ dẩn: - Này, Chủ tịch không việc gì cả đấy chứ, Chủ tịch không ngồi xe này phải không ? Thế rồi một lát thì Cụ Chủ tịch đã đến thăm chúng tôi và thấy tôi không việc gì, còn 2 vợ chồng ô. Hertrich và tài xế nằm lại nhà thương, vì bà Hertrich gẫy xương bả vai. Chủ tịch vào buồng bà nằm, an ủi và chào bà nằm trị bệnh, cả ô. ấy và cả tài xế. Chủ tịch lên xe, tôi cũng lại lên một xe khác đi đến chỗ xẩy tai nạn mà những xe khác và đoàn vẫn đợi đấy.
Lần này đến nơi, trông thấy xe bẹp, nát, kính vỡ tan tành, cửa bị long bẫy, mũi xe bị bẹp, máy hư, tay lái không bén nữa, mới biết tai nạn vừa xẩy ra rất nặng, có thể chết hết cả bốn người ngồi xe. Cứ theo người ngồi xe trước trông lại và xe đi sau chứng kiến tai nạn ấy thì cũng cho là chết cả rồi, không hy vọng gì nữa. Thế mà chỉ có bà Hertrich bị gẫy xương, còn 3 chúng tôi bị thương nhẹ cả thì thật may mắn không biết đến đâu mà kể.

Ảnh: Ăn trưa tại Normandy Hotel, Deauville (thuộc tỉnh Caen) ngày 17-7-1946, sau khi ông Đỗ Đình Thiện bị tai nạn ôtô ở Evreux.  Vòng quanh bàn (theo chiều kim đồng hồ): Hồ Chủ tịch, Jacqueline, Vũ Đình Huỳnh, Lê Văn Cưu, Đỗ Đình Thiện, Missoffe và J. Sainteny.

Ảnh: Thực đơn bữa ăn trưa
ngày 17-7-1946 tại Normandy  Hotel, Deauville, sau khi ông Đỗ Đình Thiện bị tai nạn ôtô ở Evreux.
 

Đoàn xe lại sắp sửa bắt đầu đi thì còn thiếu 2 anh Cưu và Thứ (trở lại nhà thương Evreux để thăm bệnh nhân). Một mặt tôi đi xe trở lại Evreux để đón 2 anh ấy, một mặt, xe Chủ tịch và tùy tùng cứ việc đi trước. Đến Evreux, đón được 2 a. Cưu và Thứ rồi, chúng tôi đuổi theo 2 xe đầu. Lúc này đã 2g30 chiều, khởi hành từ Evreux, đi qua Lisieux (cách Evreux 72 cây số), một nơi cũng bị tàn phá, rồi đến Deauville (cách Lisieux 28 c.s.). Đi luôn không dừng 2 nơi này cho chóng kịp đoàn xe Chủ tịch.
Khi đến cửa khách sạn Normandy thì đã thấy đoàn xe đỗ đấy. Chúng tôi xuống xe, vào khách sạn thì đã thấy Chủ tịch cùng tùy tùng ngồi bàn ăn. Chúng tôi rửa tay, chải đầu, rồi cũng ngồi vào bàn ăn dùng cơm trưa. Lúc ấy đã là 4 giờ chiều mới ăn cơm sáng, mà trong chương trình tính trước thì phải tới đây vào quãng 12g45 nếu không có việc hỏng xe trước khi ra đi và xẩy tai nạn dọc đường…”.
Một số tờ báo Pháp lúc ấy đã nêu câu hỏi: “Phải chăng đây là một vụ mưu sát hụt Chủ tịch Hồ Chí Minh?”. Nhưng rồi mọi việc cũng phải cho qua để tập trung cho những công việc hệ trọng, cấp bách hơn lúc bấy giờ.
          Khi tầu cập cảng Hải Phòng, Bác về Hà Nội trước, ông Thiện phải ở lại tiếp đoàn thủy thủ Pháp. Về đến Hà Nội, Bác cho gọi ngay bà Thiện đến gặp và nói vui: “Bác đưa chú Thiện về trả cô nguyên vẹn rồi đấy nhé!”.

8. THÁNG 12-1946
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ đêm 19-12-1946. Ông bà Thiện đã tình nguyện ở lại tham gia chiến đấu bảo vệ Thủ Đô sau khi đã gửi cả bốn người con còn nhỏ (lớn nhất 13 tuổi, bé nhất 5 tuổi) sơ tán về nhà một người bạn (ông bà Quách Văn Thinh) ở Vân Đình. Lúc ấy ông Thiện là Phó chủ tịch và bà Thiện là ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Khu Hoàn Kiếm, Hà Nội. Bà Thiện kể lại: Chiều ngày 19-12-1946 ông Phạm Ngọc Thạch còn ghé qua 54 Hàng Gai lần cuối để đón ông bà Thiện đi sơ tán, nhưng vì đã quyết ở lại tham gia chiến đấu, nên ông bà Thiện không đi. Sau 10 ngày đêm tham gia chiến đấu, có liên lạc vào đón, ông bà Thiện đã tổ chức đưa 300 cán bộ và nhân dân rút ra vùng tự do. Cuộc rút khỏi Hà Nội, qua đường bãi sông Hồng, gầm cầu Long Biên cũng đầy gian nan nguy hiểm. Trong một phút gay go, ông bà Thiện đã nói nhỏ với nhau: “Trong hai người, phải cố sống ít nhất một để nuôi con!”.

                     
                          Ảnh minh họa: Cảm tử quân ôm bom ba càng chặn đánh xe tăng địch.
                                                Ảnh tư liệu Bảo tàng Cách mạng Việt Nam

Nhật ký của Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến[25] viết:
          26.12.46
          Nghe tin vợ chồng Đỗ Đình Thiện đương còn ở lại chiến đấu tại phố mình và đường ra rất khó khăn và nguy hiểm. Gương dũng cảm của một gia đình đại tư bản.”
          1.1.1947
          Vợ chồng anh Đỗ Đình Thiện về được đêm hôm qua 10 giờ. Những lo hai ông bà không lọt được tay người Pháp…Vợ chồng Thiện vẫn còn khỏe. Gặp chị Thiện chẳng có gì lạ! Tinh thần quả cảm của hai vợ chồng ấy cũng đáng khen.”

Ảnh: Bìa sách “Nhật ký của một bộ trưởng” của Lê Văn Hiến, Tập I,
Nhà xuất bản Đà Nẵng, Tái bản lần I, 2004
 
         

          Sau khi rút khỏi Hà Nội về tới Vân Đình, ông Thiện được giao nhiệm vụ thu mua thóc để dự trữ cho Quốc phòng, còn bà Thiện nhận nhiệm vụ thu mua vàng của đồng bào tản cư để vừa giúp đỡ đồng bào, vừa tích lũy cho Nhà nước.

9. NHÀ MÁY IN TIỀN VÀ ĐỒN ĐIỀN CHI-NÊ
          Để có máy in tiền, giải quyết những khó khăn lớn về tài chính của chính quyền cách mạng, ông bà Đỗ Đình Thiện đã bỏ tiền mua nhà máy in Taupin của người Pháp biếu cho Chính phủ, sau đó để Bộ Tài chính sử dụng một cơ sở của đồn điền Chi-nê, thuộc sở hữu của ông bà, để đặt nhà máy in tiền của nhà nước ta trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong cuốn “60 năm Tài chính Việt Nam 1945-2005”[26] có đoạn viết:
“Để đảm bảo việc sản xuất tờ bạc Việt Nam được an toàn và ổn định lâu dài, lãnh đạo Bộ đã chỉ đạo Cơ quan Ấn loát tổ chức sơ tán toàn bộ thiết bị máy móc, nguyên liệu của nhà máy in bạc ra khỏi Hà Nội. Nhà máy này nguyên là nhà in Tô-panh Hà Nội được nhà tư sản yêu nước Đỗ Đình Thiện mua hiến cho Chính phủ. Địa điểm sơ tán là xã Cổ Nghĩa – Chi Nê thuộc huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình.”

Ảnh: Cơ sở chính Đồn điền Chi-nê của ông bà Đỗ Đình Thiện, nơi đặt nhà máy in tiền
    trong thời kỳ đầu cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp

Tài liệu “Nhà in Ngân hàng – 50 năm xây dựng và trưởng thành”[27] cũng viết:
            “Nhà tư sản yêu nước Đỗ Đình Thiện đã bỏ tiền mua nhà in Taupin hiến cho Chính phủ, tại đây tờ giấy bạc 100 đồng (tờ bạc con trâu xanh) đã ra đời.”
Nhà máy in tiền được di chuyển toàn bộ về đồn điền Chi-nê trong tháng 11-1946. Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến đã có mặt tại đây từ 24 giờ ngày 19-12-1946. Trưởng Ban Tài chính của Đảng Nguyễn Lương Bằng cũng đã có mặt ở đây ngày 21-12-1946.      
         
         

Ảnh: Tài liệu “Nhà in Ngân hàng – 50 năm xây dựng và trưởng thành”
           Nguyên bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến xác nhận:
          “Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ông bà Đỗ Đình Thiện đã có nhiệt tình đóng góp cho cuộc kháng chiến: ông bà đã dành một địa điểm rất thích hợp tại Cổ Nghĩa Chinê (Hà Nam Ninh) để bộ tài chính xây dựng một nhà máy in bạc tương đối lớn, đáp ứng yêu cầu về tài chính trong thời gian đầu kháng chiến.”

Ảnh: Giấy chứng nhận của ông
Lê Văn Hiến
nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
 
         

          Trong bài “Năm đầu tiên của giấy bạc Cụ Hồ”[28], ông Lê Văn Hiến viết:
          “Ở Chinê chúng tôi đặt cơ sở tại đồn điền của ông bà Đỗ Đình Thiện, một nhà tư sản lớn, giầu lòng yêu nước, đã từng tham gia chống thực dân Pháp ở Paris, bị Chính phủ Pháp trục xuất về nước. Ông Đỗ Đình Thiện dành cho chúng tôi nhà xưởng và nhiều tiện nghi khác để đặt cơ sở in tiền. Chỉ trong 1 tháng cơ sở đã bắt đầu hoạt động và đã in được một số tiền dự trữ cho Bộ Quốc phòng.”

Ảnh: Tiền Tài chính 100 đồng “con trâu xanh”, một trong những tờ giấy bạc được in tại nhà máy in tiền ở đồn điền Chi-nê.
         
Mục tiêu bị lộ, máy bay Pháp đến oanh tạc, gây tổn thất lớn cho đồn điền. “Nhật ký của một bộ trưởng”[29] viết:
          24.2.47
          Ngày 22 hồi 3 giờ 30, 8 chiếc khu trục Pháp đến tấn công tại khu vực đây …Tại đây thả tất cả 8 quả bom, 2 quả trúng đích làm hư hỏng nhà ở của vợ chồng anh Đỗ Đình Thiện.”
         
 Ảnh: Quang cảnh hiện nay nơi đặt Nhà máy in tiền tại Đồn điền Chi-nê trước đây

25.2.47
          Hai vựa café của ông Đỗ Đình Thiện bị tiêu ra tro, cháy trong một tuần lễ vẫn chưa tắt. Trong cuộc kháng chiến này, sự hy sinh của gia đình Đỗ Đình Thiện đối với quốc gia thật rất lớn, một sự nghiệp to tiêu tan không mấy chốc.
8.3.47
          Chiều nay trời ảm đạm quá …, cảnh tượng tiêu điều quá! Thiện đương đi bách bộ trước sân đôi mắt đăm đăm suy nghĩ, chị Thiện loay hoay sắp đặt công việc suốt ngày với một đống rác ngổn ngang trong nhà, trước sân, ngoài cửa ngõ.
Nhìn lại nhà cửa cơ đồ của Thiện, phút chốc vì tình thế mà biến đổi như thế này, kể cũng thương tâm. Một lời an ủi từ đáy lòng đưa ra. Cảnh tượng tiêu điều nhưng đầy tình tứ cao siêu của một người dân biết chia bùi sẻ ngọt với quốc gia khi lâm nạn.
Thiện cười ngạo nghễ. Chị Thiện cũng cười và đưa tay chỉ đống đồ đạc ngổn ngang: “thế mà vui đấy anh ạ”. Không biết chị có thật vui hay không nhưng trên nét mặt vẫn vô cùng thản nhiên và quả quyết.”

10. NUÔI BỘ ĐỘI
          Những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, đồn điền Chinê là nơi nuôi dưỡng nhiều đơn vị bộ đội, đặc biệt là một số đơn vị của đoàn quân Nam tiến trước lúc lên đường ra trận.

Ảnh: Thư của Chính trị bộ Vệ quốc đoàn Chiến khu hai gửi ông Đỗ Đình Thiện
Ngày 21-11-1947
 

Ông bà Đỗ Đình Thiện đã ủng hộ bộ đội Chiến khu 2 rất nhiều lương thực, thực phẩm. Nói riêng, trung bình mỗi ngày thịt một con bò. Riêng vụ lúa Thu năm 1946-1947 ông bà Đỗ Đình Thiện đã ủng hộ Vệ quốc đoàn Chiến khu hai 200 tấn thóc để nuôi quân. Khu trưởng Hoàng Sâm và Chính trị ủy viên Lê Hiến Mai đã có thư cảm ơn. Bức thư viết:
          “…Toàn thể bộ đội Khu hai rất cảm động được Ngài ủng hộ vụ lúa Thu trong quí đồn điền năm 1946 và 1947. Vậy nhân danh Bộ chỉ huy tối cao Chiến khu hai, chúng tôi xin thay mặt toàn thể bộ đội trân trọng gửi Ngài lời cảm ơn.
Với lòng tha thiết của Ngài trước công cuộc kháng chiến hiện nay, toàn thể bộ đội Khu hai xin hứa luôn luôn nỗ lực chiến đấu, quyết hợp lực cùng toàn dân phá tan kế hoạch mùa đông của địch để xứng đáng với nhiệt tình Ngài đã dành cho.”

11. BÁC HỒ VỚI ĐỒN ĐIỀN CHINÊ
          Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ đã nhiều lần qua lại đồn điền Chinê, dừng chân hoặc nghỉ đêm tại nhà riêng ông bà Đỗ Đình Thiện.
          Có lần Bác đến vào buổi tối, chỉ nghỉ lại mấy tiếng đồng hồ. Trước khi đi, Bác vào tận phòng ngủ, vén màn hôn “thằng bé con” một cái – Bác thường gọi con trai út ông bà Đỗ Đình Thiện như thế –  rồi lại lên đường.
          Khi Bác đến, ông bà Thiện thường bảo các con hát múa cho Bác vui. Nghe đến câu hát “Bác chúng em mắt như sao râu hơi dài” Bác tủm tỉm cười, đôi mắt Bác cũng “cười”, rồi đưa tay lên vuốt chòm râu đã điểm bạc.
          “Nhật ký của một bộ trưởng”[30] ghi:
          “18.2.47 – Trúc Sơn
          - Đạp xe về Vân Đình để sắm sửa đi Chinê.
          - Đem theo anh chị Thiện để đón tiếp Cụ.
          - Trong đêm nay Cụ đến và nghỉ lại Chinê.”
          “19.2.47
          - Cụ ở Chinê. Dân chúng không ai biết gì hết. Ban Giám đốc yêu cầu yết kiến Cụ nhưng không nên cho, vì Cụ muốn giữ kín khi đi.
          - 7 giờ tối đưa Cụ lên đường đi Thanh Hóa.”
          Trước khi Bác đi Thanh Hóa, bà Thiện chuẩn bị hai chai sữa tươi để Bác dùng dọc đường. Chẳng may, trên đường động cơ xe ôtô bị cháy. Không có nước, đành dùng 2 chai sữa để chữa cháy!
          Ông Lê Văn Hiến viết[31]:
          21.2.47 – Chinê
          Cụ trở lại Chinê hồi 3 giờ sáng sau cuộc kinh lý Thanh Hóa. Cụ đi thăm nhà máy và lùng sục khắp các nhà …Nói chuyện với anh em công nhân và tự vệ ở đây, Cụ đã làm cho ai nấy đều thêm tin tưởng…”
          Bác cùng ông Nguyễn Lương Bằng và gia đình Đỗ Đình Thiện đi thăm một số cơ sở của đồn điền Chinê. Bác nói: “Đã nghe nói từ trước, nhưng vào đây mới thấy đồn điền này lớn thật”. Ông Thiện nói đùa: “Chi-nê nhất đái vạn đại dung thân”[32]. Bác “hứ” một cái và cười vui.
          Trong khi đi thăm đồn điền, có máy bay do thám “bà già” của Pháp bay qua. Bác cùng mấy đứa nhỏ - con cháu ông bà Thiện chui xuống một hầm cá nhân bên vệ đường. Mọi người khác tản ra xung quanh.
          Bác khuyên: “Chú thím cần tìm nơi sơ tán cho các cháu, tôi lấy làm lạ sao nó chưa đánh nơi này. Nó sẽ đánh đấy!”.
          Ngay hôm sau, 22-2-1947, ông bà Thiện đưa cả gia đình đi xem một cái hang có thể làm địa điểm sơ tán. Chiều đến, trên đường trở về nhà, chỉ còn cách nhà khoảng một cây số, 8 máy bay Pháp đến oanh tạc đồn điền. Cả gia đình ông bà Thiện nằm dưới các gốc cây trong vườn cà-phê chứng kiến vụ ném bom bắn phá này.
Hay tin máy bay Pháp oanh tạc đồn điền Chinê, Bác Hồ đã gửi thư thăm hỏi đến ông bà Thiện:
          “Chú thím Thiện. Được tin chú thím, nhà Hiền[33] và các cháu đều bình an, Tôi rất vui lòng. Mất cũa cãi không sợ. /Còn trời còn Nước còn non, thì còn cũa cãi bà con họ Hồ./ Kháng chiến thành công, ta làm ra cũa khác, chắc chắn hơn. Chúc các chú thím mạnh khõe. Hôn các cháu. Chào thân ái và quyết thắng.”

                                    
                                                  Ảnh:  Thư của Bác Hồ gửi ông bà Đỗ Đình Thiện

12. VIỆT BẮC (1947-1954)
          Ít ngày sau, ông bà Đỗ Đình Thiện đưa cả gia đình lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến. Đồn điền Chi-nê được giao cho Ban Kinh Tài của Đảng quản lý. Hành trình tản cư lên Việt Bắc của gia đình Đỗ Đình Thiện trải qua nhiều chặng: Nho Quan, Vụ bản, Phú Thọ, Tuyên Quang, Bình Ca, Chiêm Hóa, Trinh. Tại mỗi chặng dừng chân đều bị máy bay Pháp oanh tạc hoặc có nguy cơ giặc tấn công lên nên lại phải vội vã di chuyển.
          Phải công nhận rằng ông bà Thiện rất năng động, nhạy bén, dũng cảm trong việc tổ chức cuộc sống thời chiến cho cả đại gia đình. Tới đâu, dù ở lâu hay mau, thì việc đầu tiên là tổ chức ngay việc đào hầm trú ẩn, nhờ thế đã tránh được tối đa tổn thất về người.  Những nơi ở ngắn thì dựa vào dân hoặc làm lán tạm để ở; hễ ở lâu là tổ chức làm nhà lá, dựng nhà sàn, tăng gia, chăn nuôi, đánh bắt cá, làm cối xay sát gạo, tự làm nước mắm, làm tương…và “mậu dịch”[34] với đồng bào địa phương. Chính vì thế cuộc sống tuy gian khổ nhưng không đến nỗi quá thiếu thốn.
Việc học của trẻ con cũng được ông bà Thiện đặc biệt quan tâm: không có trường thì tổ chức học tại nhà, bác dạy các cháu, các chị lớn dạy các em nhỏ…Lúc mới lên Việt Bắc, gia đình Đỗ Đình Thiện có hàng chục người giúp việc cùng đi. Với thời gian “biên chế” cứ gọn nhẹ dần, nhiều người giúp việc được tuyển vào làm việc ở các cơ quan. Đến khi kết thúc chiến tranh gia đình Đỗ Đình Thiện chỉ còn lại một “lão bộc” rất trung thành. Ông này cũng đã có thời vào làm cơ quan, nhưng không thích nên sau lại xin về giúp việc gia đình.

                              
                                        Ảnh: Gia đình Đỗ Đình Thiện tại chiến khu Việt Bắc - 1950

Tại chiến khu Việt bắc, ông Thiện đã đảm nhận các nhiệm vụ công tác như: Giám đốc trưởng nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, Trưởng phòng Quỹ Ngân hàng Quốc gia Việt Nam… Bà Thiện thì được giao giữ kho tiền và tài liệu của Đảng, sau làm Thủ quỹ của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Suốt thời gian được ông Nguyễn Lương Bằng mời làm Giám đốc trưởng Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo (1948-1950), với bí danh Hai Chi[35], ông Thiện tình nguyện không nhận lương để “dễ điều hành” công việc.
          Ông Thiện sống gần gũi với anh em công nhân. Có lần ông đã cùng anh em đẩy mảng trên suối, chở một đầu máy xe lửa cũ để làm máy phát điện. Ông Thiện bị mảng kẹp vào đùi, may mà không gẫy chân! Ông cũng rất quan tâm đến đời sống của công nhân. Ông Nguyễn Nhân, Giám đốc chuyên môn của nhà máy thời bấy giờ, nhiều năm sau vẫn thường thích thú kể lại với mọi người rằng, chính ông đã được chứng kiến một cuộc thảo luận về công việc của nhà máy giữa ông Thiện – nguyên là một nhà tư sản, và ông Cả - nhà lãnh đạo cộng sản, trong đó ông Thiện nhất mực bênh vực quyền lợi của anh em công nhân.

                  
Ảnh: Ông Đỗ Đình Thiện ở Việt Bắc              Ngôi nhà của gia đình Đỗ Đình Thiện tại Phúc Linh,
                                                                                       Vinh Quang, Chiêm Hóa, Tuyên Quang
            

                      
                         Ảnh: Gia đình Đỗ Đình Thiện với một thân cây đổ bên bờ suối sau cơn bão rừng

                    
                    Ảnh: Ông Đỗ Đình Thiện (người đứng hàng đầu) tại Hội nghị Ngân hàng trưởng
                                                                             Việt Bắc - 1952

Về Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, sách “Tìm hiểu lịch sử một xí nghiệp”[36] của Thanh Đạm viết:
          “Ông Hai Chi[37] là một nhân sỹ trí thức yêu nước đã từng học ở Pháp, hăng hái ủng hộ cách mạng từ lâu. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông đi theo cơ quan Đảng và Chính phủ lên Việt Bắc và đã hiến cả tài sản của mình là đồn điền Chi Nê cho cách mạng.
          Để khai thác hết khả năng của cán bộ có trình độ quản lý và kỹ thuật, anh Cả thành lập hẳn một ban giám đốc gồm có:
          - Ông Hai Chi, giám đốc trưởng.
          - Tống Minh Phương, giám đốc tiếp tế.
          - Nguyễn Nhân, giám đốc chuyên môn”
          “Anh Cả thường nói: “Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo của chúng ta có một đặc điểm quan trọng là: thời kỳ đầu, quyền chỉ huy sản xuất được trao cho các chuyên gia ngoài Đảng, vì lúc đó các đồng chí đảng viên, chưa có ai am hiểu kỹ thuật sản xuất. Chúng ta tin tưởng ở tinh thần yêu nước của các cán bộ kỹ thuật ngoài Đảng nên phải hết lòng bồi dưỡng để anh em vững bước đi theo đường lối của Đảng” ”.

Tại chiến khu Việt Bắc, gia đình Đỗ Đình Thiện được Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo thường xuyên qua lại, thăm hỏi. Ngược lại, theo truyền thống, gia đình Đỗ Đình Thiện luôn hiếu khách, quan tâm đến mọi người, ngay cả trong hòan cảnh kháng chiến khó khăn, gian khổ.
Đại hội II của Đảng, tiếp theo đó là Đại hội thống nhất Việt Minh   – Liên Việt, được tiến hành năm 1951 tại chiến khu Việt Bắc. Nhà ông bà Đỗ Đình Thiện ở gần ngay nơi tổ chức Đại hội, cách không đầy 1 km, thuộc thôn Phúc Linh, xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Những ngày này, không khí sôi nổi, nhộn nhịp từ Đại hội “tràn sang” cả nhà ông bà Thiện: nhà thường xuyên rất đông khách, trong đó nhiều vị là chỗ quen biết với ông bà Thiện từ lâu, và cũng nhiều vị mới, đặc biệt là các đại biểu từ miền Nam ra. Trong vài tấm ảnh còn lại, chụp tại nhà riêng ông bà Đỗ Đình Thiện, người ta thấy có các vị: Nguyễn Lương Bằng, Phạm Ngọc Thạch, Dương Bạch Mai, Ung Văn Khiêm, Bùi Lâm, Hà Huy Giáp, Phan Trọng Tuệ, Vũ Đình Huỳnh, Vũ Xuân Sắc, Lê Văn Hiền và chủ nhà Đỗ Đình Thiện


         



                            

                                   

Ảnh: Trong ảnh chụp tại nhà riêng ông bà Đỗ Đình Thiện ở Việt Bắc có mặt các vị: Nguyễn Lương Bằng, Phạm Ngọc Thạch, Dương Bạch Mai, Ung Văn Khiêm, Bùi Lâm, Hà Huy Giáp, Phan Trọng Tuệ, Vũ Đình Huỳnh, Vũ Xuân Sắc, Lê Văn  Hiền và Đỗ Đình Thiện
 
                             

           
                          Ảnh: Bác Hồ hôn cháu Đỗ Long Vân, con trai ông bà Đỗ Đình Thiện
                                        Việt Bắc – 1951.  ẢnhLưu trữ Bảo tàng Hồ Chí Minh
Cũng trong những ngày này, gia đình Đỗ Đình Thiện đã may mắn có dịp được gặp lại Bác nhiều lần: có lần Bác sang thăm gia đình, có lần Bác đón bọn trẻ con sang chỗ Đại hội xem phim, chụp ảnh với Bác, có lần Bác tới rồi nghỉ lại để hôm sau đi công tác sớm…

     
                          Ảnh: Bác Hồ với các con “nhà Thiện” và “nhà Hiền”, Việt Bắc - 1951

Một buổi tối Bác sang thăm gia đình Đỗ Đình Thiện, rồi đón các cháu  sang xem phim. Đến trạm gác vào khu vực Đại hội, bộ đội gác hỏi giấy tờ. Bác chẳng mang theo giấy tờ gì cả! Thế là người ta giữ cả mấy bác cháu lại, không cho vào. Bác thản nhiên vui vẻ đứng đợi và nói chuyện bình thường với các cháu. Một lúc sau, Ban tổ chức biết chuyện và cho người ra đón. Người ta trách đồng chí bộ đội gác cổng, đồng chí này thản nhiên trả lời rằng: Vì không biết đấy là Bác Hồ, tưởng là ông già địa phương nào đó dẫn các cháu đi chơi.
Bận việc, Hồ Chủ tịch không tham dự hết Hội nghị thống nhất Việt Minh – Liên Việt được. Tối hôm đó Bác nghỉ lại tại nhà Đỗ Đình Thiện để hôm sau đi sớm. Quanh bếp lửa nhà sàn, cùng với Bác và gia đình Đỗ Đình Thiện, còn có một số vị khách khác. Bác nói: Bác muốn viết thư chào và xin lỗi các đại biểu dự Hội nghị, chú nào có giấy bút thì viết hộ Bác. Mọi người “tiến cử” ông Trần Văn Giầu, được xem là “văn hay chữ tốt” nhất ở đấy. Ông Giầu lấy ra một tờ giấy trắng. Bác bắt đầu đọc. Ông Giầu đặt bút vào giữa trang giấy, chuẩn bị viết. Bác bỗng dừng lại hỏi: “Chú làm gì thế?”. Ông Giầu và mọi người chợt hiểu ra rằng Bác không muốn cho viết từ giữa trang giấy, mà phải viết từ đầu trang cho tiết kiệm. Ông Giầu cười ngượng nghịu và đành làm theo ý Bác.
Tối đó, quanh bếp lửa, các con của hai nhà Thiện - Hiền cũng biểu diễn văn nghệ để Bác xem. Sau đó, Bác yêu cầu các chú có mặt ở đó phải hát để “đáp lễ”. Các chú bí quá đành nhờ các cháu chia 2 bè hát trống quân để các chú “hát dựa”. Tối khuya, bà Thiện mắc màn mời Bác đi nghỉ. Bác không chịu vào màn, đòi nằm ngủ ngay cạnh bếp lửa. Ông Thiện không đồng ý nói: “Thưa Bác, nếu Bác không vào màn thì chúng tôi và các cháu xin phép được khiêng Bác vào”. Thế là Bác đành vào màn, và nói thêm: “Các cháu bé, cháu nào không đái dầm thì vào ngủ với Bác”.
Vì biết Bác Hồ trước đây đã có thời bị lao, bà Thiện rất lo lắng cho sức khỏe của Người. Cũng như thời gian Bác ở số 8 Vua Lê (Hà Nội), hễ có dịp là bà Thiện tìm mọi cách chăm sóc sức khỏe của Người. Đỗ Thiên Hương, con gái út ông bà Thiện, nay là bác sỹ, còn nhớ: Hồi kháng chiến ở Việt Bắc, mẹ tôi có mang theo được ít vỉ yến khô, nhưng không bao giờ thấy mẹ tôi làm để ăn. Trong dịp Bác đến dự Đại hội II này, mẹ tôi đem yến ra ngâm, bảo chị em chúng tôi cùng nhặt những sợi lông yến còn sót, rồi mẹ tôi tự tay hấp yến với đường phèn để Bác dùng.
Ông Đỗ Đình Thiện - vốn là người vui tính và yêu văn nghệ. Hơn nữa, trong hoàn cảnh kháng chiến gian khổ và thiếu thốn, ông luôn muốn tạo niềm vui cho gia đình và những người xung quanh. Ông đã lập ra một đội văn nghệ gia đình gọi là “Đoàn kịch Mê Linh” mà diễn viên toàn là con cháu trong nhà, chủ yếu là ba người con bé “nhà Thiện” và “nhà Hiền”, gồm có Đỗ Thiên Hương (10 tuổi), Lê Lan Phương (8 tuổi) và Đỗ Long Vân (7 tuổi). Việc sưu tầm kịch bản, đạo diễn, huấn luyện đều do một mình ông Thiện đảm nhiệm. “Đoàn kịch nhí” này đã biểu diễn phục vụ, được cán bộ công nhân nhà máy Trần Hưng Đạo và bà con địa phương yêu mến.

Ảnh: Đoàn kịch “nhí” Mê Linh diễn vở “Thi đua lập công”
Đỗ Thiên Hương trong vai vệ quốc đoàn
Lê Lan Phương trong vai thôn nữ
 

Trong Đại hội Đảng II, không có đoàn văn nghệ chuyên nghiệp nào đến phục vụ, chỉ có văn nghệ nghiệp dư thôi. Thế là “Đoàn kịch nhí” Mê Linh của gia đình Đỗ Đình Thiện lại được vinh dự tham gia biểu diễn phục vụ Đại hội. Hôm đó, dưới ánh lửa trại bập bùng ngoài trời, “Đoàn kịch nhí” diễn vở “Thi đua lập công”, rồi “Cao sinh Cao mẫu”[38]. Kết thúc buổi diễn, nhà thơ Tố Hữu tỏ lời khen ngợi và nói thêm: “Các chú có thiếu sót là chưa sáng tác kịp thời những vở diễn dành cho thiếu nhi, để các cháu phải diễn những vở “già” quá lứa tuổi!” Kháng chiến gian khổ thật, nhưng đôi khi cũng có những niềm vui nho nhỏ và những kỷ niệm đẹp khó quên!
Có lần, các con ông bà Thiện biếu Bác trứng và rau nhà tăng gia được, Bác đã làm bốn câu thơ cảm ơn, đánh máy trên tấm thiếp chúc tết Tân Mão (1951) của Bác:
          “Cãm ơn các cháu,
                    Biếu Bác trứng, rau,
                             Bác chúc các cháu,
Học hành tiến mau.”

                    
                                Ảnh: Thiếp chúc tết Tân Mão (1951) của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trong một thư khác Bác viết”
“Các cháu nhà Thiện, nhà Hiền,
Nhân zịp bác Cả[39] về, Bác không có gì gỡi biếu các cháu. Bác gỡi các cháu mượn xem 1 quyễn tiễu sữ cũa 1 cháu nhi đồng Nam-bộ. Các cháu xem xong, bác sẽ gỡi cho các cháu khác xem.
Cãm ơn Thím Thiện đã biếu 2 chai tương rất ngon.
Chúc các chú thím mạnh khõe, và Hôn các cháu.”

       
                                     Ảnh: Thư Bác Hồ gửi cho các cháu nhà Thiện, nhà Hiền

Các con gái lớn “nhà Thiện” và “nhà Hiền”, gồm Đỗ Thanh Liên, Lê Thị Hồng Minh và Đỗ Kim Anh, được giao thêu áo để Bác gửi tặng chiến sỹ ngoài mặt trận. Trong một thư gửi ông Nguyễn Lương Bằng, Bác gửi lời khen:
“Chú Cã,
Thư chú viết hôm 22, hôm 27 tiếp được. Lần này z.t.[40] mau hơn.
          - Áo nhận được cả rồi.
          - Gỡi lời khen các cháu nhà Thiện nhà Hiền thêu khéo. Còn nhiều ít áo đồ đang thêu?”

                                             
                                            Ảnh: Thư Hồ Chủ tịch gửi ông Nguyễn Lương Bằng

Trong một thư gửi ông bà Thiện, Bác viết:
“Gỡi Chú Thím Thiện,
Cãm ơn chú thím đã gỡi biếu 1 bộ áo rất đẹp, nhất là cái zì cũng tự tay mình làm lấy.
Nge nói các cháu thêu khéo. Bác gỡi lời khen các cháu và hôn các cháu.
Thân ái
12/48
Bác”

             
                                                Ảnh: Thư Bác Hồ gửi ông bà Đỗ Đình Thiện

Năm 1952, ông bà Đỗ Đình Thiện chuyển sang nhận công tác ở Ngân hàng Trung ương vừa được thành lập. Cơ quan mới chuyển đến Cầu Bì thuộc ATK (An toàn khu, Thái Nguyên), còn rất khó khăn thiếu thốn. Gia đình ông bà Thiện ở nhờ và ở chung với một gia đình đồng bào địa phương, trên một ngôi nhà sàn, dưới gầm nuôi trâu, lợn, gà. Nhà ở cách đường mòn vài chục mét.
Một lần Bác đi công tác qua, cưỡi ngựa vào tới nửa ngõ mới phát hiện là gia đình ở chung với đồng bào. Bác quay ngựa ra, cho cần vụ vào gọi gia đình ra đường gặp Bác. Sau khi hôn các cháu, Bác ngồi xuống vệ đường nói chuyện, thăm hỏi gia đình, rồi cầm một cái que vẽ đường đi đến chỗ Bác ở. Bác nói: “Mời chú thím vào chơi, các cháu thì Bác không mời vì nhỡ đi về ốm lại “đổ tại” Bác; và nếu chú thím ở đây khó khăn, chú Cả chưa làm được nhà, thì chú thím và các cháu vào ở chỗ Bác.”
Bác quan tâm, sẵn sàng chia sẻ khó khăn với gia đình vậy đó. Nhưng ông bà Thiện là những người khí khái, tự trọng, không bao giờ lạm dụng lòng tốt của Người. Gia đình Đỗ Đình Thiện, dĩ nhiên, không vào ở chỗ Bác, thậm chí cũng không bao giờ vào đó chơi. Có lần, các con ông bà Thiện hỏi: “Sao Bác mời mà bố mẹ không vào thăm Bác?”. Ông Thiện trả lời: “Đang chiến tranh, chỗ Bác ở cần phải giữ bí mật, không có việc thì không nên vào”.
Khi chiến dịch Điện Biên Phủ  ở giai đoạn cao trào, khoảng cuối 1953 đầu 1954, cần phải huy động rất nhiều nhân lực, vật lực. Bà Thiện, lúc ấy đang tạm nghỉ việc ở Tuyên Quang để chuyển công tác khác, đã xung phong đi dân công làm đường hàng tháng trời để phục vụ chiến dịch. Còn con gái cả ông bà Thiện, chị Đỗ Thanh Liên[41], đang là học sinh lớp 8 trường Tân trào, Tuyên Quang, đã xung phong đi phục vụ tiền phương chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong số 28 học sinh của trường xung phong đi đợt đó, chỉ mình Đỗ Thanh Liên là nữ. Tiễn con gái lên đường, ông Thiện nói với con: “Bố mẹ rất tiếc không có con trai lớn để tham gia đánh giặc, bố mẹ rất hãnh diện về việc làm này của con.”

13. TRỞ VỀ THỦ ĐÔ
Ông Đỗ Đình Thiện nghỉ công tác từ 1953: Từ sau tai nạn ô tô ở Pháp  (17-7-1946), Ông thường bị chóng mặt. Hồi còn ở Việt Bắc, có lần đang tăng gia trồng rau ngoài ruộng, Ông phải ôm lấy cột hàng rào cho khỏi ngã!
Sau ngày kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Ông trở về Thủ đô, sống tại nhà riêng ở 76 Nguyễn Du, Hà Nội.

                            
                                                             
                                  Ảnh: Ông Đỗ Đình Thiện tại 76 Nguyễn, Hà Nội, 1955 - 1956

Từ 1958 đến 1972 ông Đỗ Đình Thiện tham gia và được bầu là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ông tích cực hoạt động và hoàn thành có trách nhiệm mọi việc được giao.
Sau kháng chiến, gia đình Đỗ Đình Thiện hầu như hoàn toàn phá sản, cuộc sống không còn phong lưu như xưa nữa. Nhưng trước sau như nhất, ông bà Thiện vẫn rất hiếu khách, quan tâm đến bạn bè, và luôn sẵn lòng giúp đỡ bạn bè khi cần. Chẳng hạn, có một thời ông Nguyễn Lương Bằng bị chẩn đoán “ung thư vòm họng!”, phải đi Trung Quốc khám và điều trị. Bà Thục Trinh, vợ Ông, rất ngang ngửa: không biết nên đi theo chăm sóc Ông hay ở nhà với các con vì bốn con đều còn nhỏ! Ông bà Thiện đã động viên bà Trinh: “Chị cứ yên tâm đi theo chăm sóc anh cho chu đáo. Nếu anh phải điều trị lâu dài ở bên đó thì các cháu ở nhà đã có chúng tôi lo”. Thế là vợ chồng ông Bằng lên đường đi Trung Quốc, tạm gửi người con gái cả cho ông bà Thiện chăm sóc. Rất may, sau khi kiểm tra kỹ tại Trung Quốc, ông Bằng không bị ung thư và đã trở về.
Các bạn và đồng chí cũ của ông Thiện như các ông Trần Văn Giầu, Trương Công Quyền, Nguyễn Văn Dựt, Phan Tư Nghĩa, Châu Lượng, Bùi Lâm, Nguyễn Tạo, Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Nguyễn Khánh Toàn …vẫn thường xuyên có mặt tại gia đình Đỗ Đình Thiện. Một số vị khác như Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Văn Hoan, Trần Duy Hưng …cũng thỉnh thoảng tới thăm, đặc biệt là vào các dịp lễ tết. Còn Bác Tôn Đức Thắng thì đã có lần đi xe đạp đến 76 Nguyễn Du để thăm gia đình  Đỗ Đình Thiện.

            
                                Ảnh: Ông bà Đỗ Đình Thiện và các con, Hà Nội, 1955 - 1956

Mặc dù hoàn cảnh kinh tế của gia đình lúc này không lấy gì làm sung túc, thậm chí khó khăn, ông bà Đỗ Đình Thiện vẫn rất quan tâm đến việc giáo dục các con, và đã hết sức cố gắng để cả bốn người con đều được học đại học.
Một lần vào dịp tết, khoảng năm 1960, Bác Hồ đã tới thăm gia đình ở 76 Nguyễn Du. Nhìn thấy trên bàn ăn có bánh trưng Bác vui vẻ nói:  “Thế là có Tết rồi đây!”. Gia đình Đỗ Đình Thiện tiếp Bác ở phòng khách tầng 1. Biết con gái thứ 3 của ông bà Thiện, cháu Đỗ Thiên Hương, bị ốm nằm trên lầu, Bác lên tận nơi thăm hỏi. Những năm sau đó, Đỗ Thiên Hương thường hay được lên nhà Bác chơi.
Chị Đỗ Thiên Hương kể: Trong lần tiếp ông bà luật sư Lô-dơ-bi cùng con gái sang thăm Việt Nam vào Tết Canh Tý 1960, Bác chỉ vào tôi giới thiệu với khách: “Cháu gái này là con một gia đình vốn là đại tư sản yêu nước ở Hà Nội. Nay cả bốn người con đều vào đại học”. Một lần, hai Bác cháu đang dạo chơi trong vườn nhà Bác thì gặp bác Lê Duẩn đi sang. Bác Hồ chỉ vào tôi nói với bác Lê Duẩn: “Cháu đây là con chú thím Thiện”. Bác Duẩn vui vẻ đặt hai tay lên vai tôi và nói: “Mẹ cháu ngày xưa cùng ở tù với chú. Mẹ cháu tốt lắm, khi chú ốm, mẹ cháu đã chăm sóc chú rất chu đáo, còn giặt quần áo cho các chú nữa…”

Ảnh: Bác Hồ đón gia đình luật sư Lô-dơ-bi, Tết 1960.
Đỗ Thiên Hương (đứng giữa), con gái  ông bà Đỗ Đình Thiện, đang tặng hoa ông Lô-dơ-bi












 

Một dịp khác, Bác mời cả gia đình Đỗ Đình Thiện lên Chủ tịch phủ, nói chuyện ở phòng khách, và sau đó xem phim cùng với Bác.
Sinh thời, ông bà Đỗ Đình Thiện sống giản dị. Ông không có lương hưu, và hưởng bìa N (là tiêu chuẩn phân phối thấp nhất thời bao cấp dành cho dân thường). Khi ông Thiện lâm bệnh nặng vào điều trị tại Bệnh viện  Việt - Xô, bác sỹ Bùi Kỳ, Chủ nhiệm khoa Tim mạch, đã lúng túng không biết xếp Ông vào tiêu chuẩn nào (thời đó thuốc điều trị phụ thuộc vào lương và cấp bậc!).  Bác sỹ Kỳ về kể với gia đình rằng: “Trong bệnh viện có một trường hợp rất lạ: một ông già chẳng có chức vụ gì, thậm chí không có lương, nhưng các đồng chí cán bộ cao cấp cứ thay nhau vào thăm!”
Gần đây, ông Trần Văn Giầu kể lại: Trong một lần từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội, ông đã tới thăm ông Phạm Văn Đồng. Lúc chia tay, ông Giầu nói: “Bây giờ tôi tới “thăm” “ông bạn triệu phú” của tôi đây”. Ông Đồng liền hỏi: “Anh đến anh Thiện à?”. Ngừng một lúc, ông Đồng nói tiếp: “Anh Đỗ Đình Thiện là một người rất đặc biệt: Bác Hồ và tôi làm việc cho cách mạng còn phải có lương, nhưng anh Thiện thì không chịu nhận lương!”
Ông Thiện rất yêu và hiểu tâm lý trẻ con. Ông chiều các cháu tới mức có lần đã đem quả buộc lên cây để các cháu tự hái “cho sướng”… Cho đến nay, con một số bạn của Ông, như Bùi Lâm, Nguyễn Tạo, Nguyễn Lương Bằng, Châu Lượng, Bùi Công Trừng … vẫn giữ mãi những kỷ niệm đẹp thời thơ ấu với “Bác Thiện”.
            
Ảnh: Ông Đỗ Đình Thiện và các con ông Bùi Lâm        Ảnh: Ông bà Đỗ Đình Thiện và cháu ngoại
                                                                                                                   đầu tiên  Văn Trung

14. VỀ CÕI VĨNH HẰNG
          Ông Đỗ Đình Thiện mất ngày 2 tháng 1 năm 1972 (tức 16-11 Tân Hợi) tại Bênh viện Việt-Xô, hưởng thọ 69 tuổi. Đó đúng vào dịp máy bay Mỹ tạm ngừng đánh phá miền Bắc và Hà Nội. Ông Đỗ Đình Thiện lặng lẽ ra đi, không có điếu văn ( thời đó chưa có thói quen đọc điếu văn trong lễ tang đối với nhân dân và cán bộ bình thường), nhưng để lại niềm tiếc thương vô hạn và kỷ niệm đẹp trong lòng người thân, họ hàng, bạn bè, đồng chí từ thành phố đến thôn quê.
         
                 
                                                      Ông Đỗ Đình Thiện (1904-1972)

Trong thời gian bệnh nặng, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng và nhiều cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước đã vào bệnh viện thăm Ông.
          Khi Ông qua đời, Tổng bí thư Lê Duẩn, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh cùng phu nhân đã đến viếng và chia buồn cùng gia đình.

  
                 Ảnh: Tổng bí thư Lê Duẩn viếng ông Đỗ Đình Thiện và chia buồn cùng gia đình

 

Ảnh: Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh cùng phu nhân viếng ông Đỗ Đình Thiện
và chia buồn cùng gia đình

Phó Chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng, Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam Hoàng Quốc Việt, Phó thủ tướng Phan Kế Toại, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội Trần Duy Hưng, Bí thư thành ủy Hà Nội Nguyễn Văn Trân, và nhiều vị cao cấp khác đã đến viếng và tiễn đưa Ông.
Trong số các bạn học và đồng chí cùng hoạt động tại Pháp đến viếng và tiễn đưa ông Đỗ Đình Thiện, người ta thấy có các vị: Trần Văn Giầu, Trương Công Quyền, Nguyễn Xiển, Phan Tư Nghĩa, Nguyễn Văn Dựt, Châu Lượng, Phi Hoanh …

  
Ảnh: Các ông Hoàng Quốc Việt, Trần Duy Hưng, Trần Văn Giầu, Phi Hoanh, Trương Công Quyền, Phan Tư Nghĩa, Nguyễn Văn Dựt trong lễ tang ông Đỗ Đình Thiện
                                                   
Ông Trần Văn Giầu kể rằng, trong lễ tang người ta nói với nhau: “Anh Đỗ Đình Thiện, khi có một xu dính túi cũng như khi có một triệu đồng trong túi, đối với bạn không thay đổi, lúc nào cũng sẵn lòng giúp đỡ bạn”. Thật ra thì đã từ lâu ông Thiện được bạn bè mệnh danh là “Mạnh Thường Quân”.
Thân bằng cố hữu ở Thủ đô ngậm ngùi tiễn đưa Ông, bà con thôn quê nhiệt thành đón Ông về an nghỉ nơi cánh đồng làng quê hương.

                  
                           Ảnh: Đám tang ông Đỗ Đình Thiện trên đường phố Nguyễn Du, Hà Nội

                        
                                                     Ảnh: Ông Đỗ Đình Thiện về với làng quê Cổ Nhuế
         
15. PHÚC ĐỨC NHỜ MẪU
Bà Thiện vốn tính trầm lặng, gan góc, nhưng sự ra đi của ông Thiện đã thực sự gây nên sự mất mát không thể bù đắp trong cuộc sống tinh thần của Bà. Người tinh ý có thể nhận thấy ở Bà một nỗi buồn bị kìm nén, kéo dài trong nhiều năm. Là người nhân hậu, giỏi nội trợ, khéo tay, cả cuộc đời Bà hết lòng vì chồng vì con. Còn ông Thiện, lúc sinh thời, rất thương cảm cho hoàn cảnh côi cút thời thơ ấu của Bà. Như để bù đắp phần nào sự thiệt thòi ấy, Ông thương yêu Bà một cách kín đáo, và thường có những cử chỉ quan tâm chăm sóc Bà một cách tế nhị. Chẳng hạn, sau kháng chiến ở Việt Bắc trở về Hà Nội, bà Thiện còn chưa biết đi xe đạp. Bà phải đi làm xa, ông Thiện đã giúp Bà tập xe.  Sáng sáng, Ông thường dậy sớm, lo bữa ăn sáng cho Bà, giắt xe ra cổng, chờ cho Bà lên xe đi khuất rồi ông mới trở vào…
Bà Thiện giấu nỗi buồn riêng vào sâu trong lòng, lấy việc tận tụy chăm chút, gây dựng cho con cho cháu làm niềm vui. Bà thực sự là chỗ dựa tin cậy của con cháu trong nhà và cả hai bên nội, ngoại. Chính nhờ lòng tận tụy, quả cảm và tấm gương hy sinh mẫu mực của Bà mà các con, các cháu đã ngày một trưởng thành, đứng vững được trước những  khó khăn, thử thách cũng như những đổi thay của thời cuộc.


Ảnh: Bà Thiện bên bàn thờ Ông
 
         

Con trai út ông bà Thiện, GS-TSKH Đỗ Long Vân, trong một chuyến công tác dài ngày ở nước ngoài, đã tâm sự cùng mẹ:
“Ai cũng bảo con lớn khôn rồi mẹ ạ,
Nhưng sao con vẫn thấy mình thơ dại quá!
Mỗi bước con đi, cuộc đời đầy xa lạ!
Mong Mẹ nhủ khuyên, Mẹ ở xa!”
Đỗ Thiên Hương, con gái ông bà Thiện, nhớ lại:
“Vào đầu những năm 80 thế kỷ trước, tình hình kinh tế ở miền Bắc nước ta vô cùng khó khăn. Hai vợ chồng tôi đều là bác sĩ chủ nhiệm khoa ở một bệnh viện, lại làm thêm đủ thứ như nuôi lợn, cuốn thuốc lá, rang lạc…mà vẫn rất chật vật để sống và nuôi hai con nhỏ. Tôi nẩy ra ý nghĩ chuyển vùng vào Nam, nhưng còn băn khoăn một nỗi mẹ già thiếu người chăm sóc. Hiểu thấu lòng con, mẹ tôi động viên: “Mẹ biết con còn băn khoăn, muốn được ở gần để chăm sóc mẹ. Nhưng nay mẹ tuổi đã cao, cuộc sống chỉ còn tính từng năm, còn con thì phải lo cho các cháu rất lâu dài. Mà mẹ cũng không thể thực sự yên lòng khi thấy các con quá khó khăn. Ở miền Nam, thiên nhiên có phần ưu đãi hơn, nông nghiệp trù phú hơn, mình nghèo thì ăn con cá con cũng vẫn sẵn. Khi cuộc sống gia đình con tạm ổn, mẹ con mình vẫn có thể ra vào thăm nom nhau được. Con đừng suy nghĩ quá nặng nề như thế!”.”
“Khi gia đình tôi đã chuyển vào thành phố Hồ Chí Minh, công tác ở Bệnh viện Thống nhất, trong vòng năm năm đầu (1985 – 1990), mặc dù tuổi đã cao, mẹ tôi đã 21 lần gửi thư cho tôi để động viên, khuyên bảo, căn dặn đủ điều. Trong một lá thư mẹ tôi viết: “Phấn đấu cũng có thời điểm, thời cơ, nếu cứ để trôi qua hoài thì rất phí. Các con ở ngoài này công tác đã rất tốt rồi, nay vào chỗ mới cũng cần cố gắng chăm chỉ làm tốt hơn để có uy tín với mọi người. Mình có tự trọng thì mọi người mới quý mình”. Trong một thư khác mẹ tôi dặn: “Đối với các cháu cũng phải nhắc nhở luôn: sống cho đoàng hoàng, trong sạch thì mọi người mới quý trọng mình. Làm những điều sai phạm, dù nhỏ, là tự bôi nhọ danh dự của mình, đến đâu cũng bị người ta khinh. Phải luôn nhớ “Đói cho sạch, rách cho thơm”…” Và rồi mẹ tôi cũng đã hai lần thu xếp vào thăm chúng tôi.”
“Với các con các cháu, mẹ tôi luôn vui vẻ, nhẹ nhàng, kiên trì khuyên bảo, cư xử công bằng, khách quan. Chẳng hạn, đối với con dâu, mẹ tôi không bao giờ nặng lời, mà chỉ nhẹ nhàng bảo ban một cách tình cảm để con dâu hòa nhập với sinh hoạt của gia đình mình. Thu Nguyệt - em dâu tôi cũng rất yêu quí và cảm phục bà. Trong những năm tháng mẹ tôi bệnh nặng, em Nguyệt đã luôn cùng chúng tôi tận tụy ngày đêm chăm sóc mẹ”.
Cháu trai Vy Đỗ Quang kể rằng, mỗi lần ngồi nhổ tóc sâu cho bà ngoại, Bà thường nhẹ nhàng tâm sự, khuyên bảo, dặn dò. Và có lần bà đã đọc cho  nghe hai câu thơ mà cháu nhớ mãi đến giờ:
“Làm việc nghĩa chẳng nên bàn lợi hại,
 Luận anh hùng xin chớ kể được thua”.
Còn cháu gái Vy Đỗ Quyên, người đã thường xuyên có mặt bên giường bệnh của bà, nhớ lại: “Bà hết mực thương yêu và quan tâm dạy bảo các cháu. Để cháu hiểu và biết quí thời gian, Bà hay tủm tỉm đọc:
“Thời giờ thấm thoắt thoi đưa,
 Nó đi, đi mãi, chẳng chờ đợi ai!”.”
Mỗi khi gặp nhau, các cháu nội, ngoại lại có dịp ôn lại những kỷ niệm về bà: Bà làm gì cũng hết sức tỉ mỉ, chu đáo. Bà sống rất ngăn nắp, trật tự, sạch sẽ, và chịu khó rèn luyện thân thể. Mặc dù tuổi cao, Bà luôn cố gắng tự làm lấy mọi việc, không muốn làm phiền ai bao giờ. Bà là tấm gương sáng mà chúng cháu phải suốt đời noi theo.


 
                                                Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện với các con các cháu (1974)
  
         Ảnh: Bà Thiện với vợ chồng con trai Đỗ Long Vân                        Bà Thiện với cháu nội đầu
                                 trong dịp cưới (1974)                                                       Đỗ Thanh Tùng (1980)
             


            

            
                                                 Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện với các con các cháu (1982)

                
               
Ảnh: Bà Thiện bế cháu nội thứ hai                 Bà Thiện với gia đình con trai Đỗ Long Vân (1989)
          Đỗ Đức Dũng (10-1986)




                                       Ảnh:  Bà Đỗ Đình Thiện trong dịp mừng thọ 80 tuổi (1992)

Từ 1971 đến 1976 bà Đỗ Đình Thiện được bầu là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cũng như ông Thiện trước đây, Bà thực hiện mọi việc được giao với tất cả tinh thần trách nhiệm của mình.




16. TRỞ VỀ
Từ 1993 sức khỏe của bà Đỗ Đình Thiện có bước giảm sút rõ rệt, rồi bệnh cứ nặng dần lên. Bác sỹ Đỗ Thiên Hương kể về những ngày tháng cuối cùng của mẹ mình:
“Khi bệnh nặng, nằm tại giường, không đi lại được nữa, nói khó, ăn uống khó khăn, mẹ tôi đã gan góc chịu đựng những đau đớn, bứt dứt, không rên la, không bực bội, chấp hành nghiêm chỉ dẫn của thầy thuốc, lắng nghe lời an ủi, động viên của con cháu, cố làm yên lòng mọi người trong gia đình. Những giờ phút dễ chịu hơn, mẹ tôi lại kể cho tôi nghe những kỷ niệm cũ, đọc lại những vần thơ của các đồng chí cùng bị tù …”
“Một lần, ngồi bên mẹ, tôi đã đọc tặng bà mấy vần thơ vui như sau:
Bà ơi bà, con yêu bà lắm!
Tóc bà trắng là trắng như tơ,
Má thơm mịn như là quả mơ,
Môi bà hồng như môi trẻ thơ.

Bà ơi bà, con yêu bà lắm!
Mắt bà sáng là sáng như gương,
Trán bà rộng như là vừng dương,
Mũi bà thẳng như cây bạch dương.

Bà ơi bà, con yêu bà lắm!
Tóc bà trắng là trắng như tơ,
Bà thương người hơn thương trẻ thơ,
Chiến đấu kiên cường, cuộc đời bà rất thơ.
“Một chiều hè, tôi ngồi khoanh chân bên mẹ trên giường bệnh. Bỗng nhiên, bà nhấc đầu khỏi gối, chuyển sang gối vào lòng tôi. Bàn tay bà xoa xoa đầu gối tôi và ngước mắt nhìn trìu mến. Tôi tủm tỉm cười hỏi: “Cái gối” này có êm không hở mẹ? Mẹ tôi mỉm cười, nhẹ gật đầu. Ngờ đâu đêm hôm đó mẹ tôi đã mãi mãi ra đi!”
Thế là, sau hai mươi bốn năm “xa cách”, bà Đỗ Đình Thiện (tức Trịnh Thị Điền)  đã “trở về” bên Ông ngày 21-6-1996 (tức 6-5 Bính Tý), hưởng thọ 85 tuổi.

Bà Đỗ Đình Thiện (1912-1996)

 
           
                                                            
          Lễ tang bà Thiện được tổ chức tại số 5 Lê Thánh Tông. Họ hàng, bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp đến rất đông. Tổng bí thư Đỗ Mười, Cố vấn Phạm Văn Đồng đã gửi vòng hoa viếng bà Đỗ Đình Thiện.

              
Ảnh: Hoa viếng của Tổng bí thư Đỗ Mười, Cố vấn Phạm Văn Đồng
và gia đình đồng chí Trường Chinh

Ông Lê Văn Hiến và nhiều cán bộ cao cấp đã đến viếng bà Đỗ Đình Thiện và chia buồn cùng gia đình.

Ảnh: Nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến và nguyên Giám đốc Nhà máy in tiền tại đồn điền Chi-nê Phạm Quang Chúc (thứ 4 từ trái sang) viếng bà Đỗ Đình Thiện

          Phu nhân Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Trưởng nữ đã chuyển thư chia buồn của Đại tướng tới gia đình. Sau đó đã tới đặt vòng hoa viếng bà Đỗ Đình Thiện.
          Đại diện gia đình các cố đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Tạo, Bùi Lâm, Bùi Công Trừng, Trần Duy Hưng … đã đến viếng bà Đỗ Đình Thiện.
          Thư chia buồn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết:
          “Tôi rất xúc động được tin buồn đ.c.[42] Trịnh Thị Điền (chúng tôi thường gọi là chị Thiện) từ trần. Đ.c. là một người phụ nữ mẫu mực đã suốt đời fục vụ nhân dân, fục vụ Đảng, từ những ngày đấu tranh gian khổ và hào hùng. Trong giờ phút đau thương, tôi và gia đình xin gửi đến toàn thể gia quyến và bà con thân thuộc đ.c. Điền lời thương tiếc vô hạn và lời chia buồn thống thiết nhất. Đ.c. Điền ra đi là một mất mát lớn cho các đ.c. và bạn bè thân hữu. Đ.c. Điền để lại một tấm gương sáng cho các thế hệ phụ nữ chúng ta.
          Tôi nhớ mãi hình ảnh chị Điền (chị Thiện)
          Hà Nội 24/6/96.”
           
             
                       Ảnh: Thư chia buồn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi gia đình Đỗ Đình Thiện
              
                    Ảnh: Phu nhân và Trưởng nữ Đại tướng Võ Nguyên Giáp viếng bà Đỗ Đình Thiện

           


             
                         Ảnh: Những giây phút cuối cùng con cháu quây quần bên bà Đỗ Đình Thiện

             
                                                  Ảnh: Các chắt ghi nhớ mãi lòng nhân ái của  Cụ
         
           
            
                                                Ảnh: Đám tang bà Đỗ Đình Thiện tại Hà Nội
            
                    Ảnh: Đưa bà Đỗ Đình Thiện về nơi yên nghỉ cuối cùng tại cánh đồng làng Cổ Nhuế

Cho dù bà Đỗ Đình Thiện ra đi ở tuổi 85, các con Bà rất đau đớn vì tổn thất này. Họ không muốn tin, đúng hơn là không muốn chấp nhận mình đã thực sự mất mẹ. Chính vì vậy, con trai Bà, trong lời tiễn biệt, thay vì câu “Vĩnh biệt mẹ!”, đã nói: “Tạm biệt mẹ trong một chuyến đi xa!”.


       Ảnh: Nơi an nghỉ của ông bà Đỗ Đình Thiện tại cánh đồng làng Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội

                             Ảnh: Bàn thờ ông bà Đỗ Đình Thiện tại 76 Nguyễn Du, Hà Nội


         
         
17. PHẦN THƯỞNG CAO QUÝ
          Năm 1950 ông bà Đỗ Đình Thiện được nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì vì “Đã hăng hái tham gia kháng chiến, xung phong hiến điền và hy sinh tài sản cho Chính phủ”. Ông Nguyễn Lương Bằng cho biết ông bà Đỗ Đình Thiện là một trong hai trường hợp mà cả hai vợ chồng cùng được thưởng huân chương vào thời điểm đó[43].
Năm 1991, bà Đỗ Đình Thiện được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Ông bà Đỗ Đình Thiện cũng được nhiều phần thưởng khác như Huy chương “Vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân”, Huy chương “Vì sự nghiệp tài chính Đảng”, Huy chương “Vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ” …
Sinh thời, Bác Hồ luôn dành cho gia đình Đỗ Đình Thiện tình cảm yêu quý và sự quan tâm đặc biệt. Ông Nguyễn Lương Bằng đã từng nói: Trong một lần, khi nhắc đến gia đình Đỗ Đình Thiện, Bác nói: “Gia đình ấy với mình chỉ là một”. Đó là một vinh dự lớn lao, một phần thưởng vô giá cho gia đình Đỗ Đình Thiện.
Trong nhiều năm, vào dịp kỷ niệm thành lập Đảng và Quốc khánh, ông bà Đỗ Đình Thiện thường được mời dự các cuộc gặp mặt của đại diện các gia đình cơ sở cách mạng với các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước.

Bà Thiện cũng đã được tổ chức cho đi tham quan và nghỉ dưỡng ở một số nước anh em như Trung Quốc, Liên Xô, Cộng hòa Dân chủ Đức.

                  
     Ảnh: Bà Đỗ ĐìnhThiện (hàng đầu, áo dài xẫm)
     trong đoàn tham quan Trung Quốc (cuối những năm 50 TK 20)


   
               Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện ( hàng đầu, áo dài trắng) trong đoàn tham quan Liên Xô (1974)
Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện (hàng đầu, áo trắng) trong đoàn đi nghỉ dưỡng và tham quan CHDC Đức (1989)
 

Cảm hứng trong chuyến đi thăm Cộng hòa Dân chủ Đức, bà Thiện viết:
“Tạo hóa xây nên cảnh hữu tình,
Bao la vũ trụ một mầu xanh,
Mênh mông thăm thẳm không bờ bến,
Lớp lớp trùng trùng mây bao quanh.
Con tầu rẽ gió bay lơ lửng,
Vượt mấy trùng dương đến Bá Linh,
Đưa đoàn du khách thăm nước bạn,
Đoàn kết bang giao thêm thắm tình.”

                          Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện cùng con cháu thăm nhà Bác (1985)


Ảnh: Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, thay mặt Chủ tịch nước trao Huân chương Độc lập hạng Nhất cho bà Đỗ Đình Thiện. T/p Hồ Chí Minh -1991

Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện (tức Trịnh Thị Điền) trong dịp được tặng thưởng
Huân chương Độc lập hạng Nhất
 
  

 Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí xả thân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, đức hy sinh cao cả vì lợi ích quốc gia, nhân cách vừa cao sang vừa bình dị và đạo đức trong sáng của ông bà Đỗ Đình Thiện còn mãi trong lòng con cháu, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, đồng chí,… và sáng mãi trong lòng dân tộc. Phải chăng, đó chính là phần thưởng cao quý nhất mà Tổ quốc và Nhân dân dành cho ông bà Đỗ Đình Thiện.

Ảnh: Đoàn đại biểu Câu lạc bộ Doanh nghiệp Việt Nam do TSKH. Nguyễn Văn Bảy (thứ tư từ  trái sang), Chủ tịch Câu lạc bộ, thắp hương tưởng niệm ông bà Đỗ Đình Thiện nhân Ngày Doanh nhân Việt Nam 13-10-2004
          
      
      



[1] Ông Đỗ Viết Dung là kỹ sư  hoả xa, ông Đỗ Văn Tùng là kỹ sư lục lộ, bà Đỗ Thị Hiên là thương gia.
[2] Thành viên chi bộ Hàm Long – chi bộ cộng sản đầu tiên ở nước ta.
[3] Tương đương tiểu học bây giờ.
[4] Chiến sỹ cách mạng, chết tại nhà tù Sơn La
[5] Bí danh của cô Trịnh Thị Điền.
[6] Camp: trại, ở đây nghĩa là bị bắt đi tù
[7] Ban Tài chính Quản trị Trung ương, Biên niên sử  Hoạt động tài chính của Đảng Cộng sản Việt Nam (Lưu hành nội bộ), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2000.
[8] Xem Hồi ký của bà Đỗ Đình Thiện, Phần III cùng sách này.
[9] Bộ Tài chính, 60 năm Tài chính Việt Nam 1945-2005 (Lưu hành nội bộ), Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, tháng 8-2005, trang 23-24.
[10] Dân chủ, 18-9-1945.
[11] Quốc hội, số 3, Thứ tư ngày 19-12-1945.
[12] Cứu quốc (Cơ quan Tuyên-truyền Tranh-đấu của Tổng-bộ Việt Minh) ,số 18, Thứ 7 ngày 5-1-1946,
[13] Đào Văn Sử, Chuyện 60 năm trước Tết này mới kể, Quân đội Nhân dân, Xuân Bính tuất 2006.
[14] Trưởng ban tổ chức “Lễ Độc lập” 2-9-1945.
[15] Việt-Nam Dân-quốc Công-báo ngày 19-1-1946
[16] Đỗ Đình Thiện (ghi), Nhật ký làm việc của Hồ Chủ tịch bốn tháng ở Pháp (22-6-1946-17-9-1946), xem Phần III cùng sách này.
[17] Nhật ký làm việc …, đd.
[18] Marius Moutet, Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại.
[19] Géorges Bidault, Thủ tướng CH Pháp.
[20] Hoàng Minh Giám
[21] M. Jean Sainteny, Thống xứ CH Pháp tại Đông Dương.
[22] Dương Bạch Mai
[23] Trở về với Tổ quốc kính yêu, Hồi ký của GS. Trần Đại Nghĩa, Báo Lao động, số 74/93(3893), ngày 16-9-1993.
[24] Nhật ký làm việc…, đd.
[25] Lê Văn Hiến, Nhật ký của một bộ trưởng, Tập I, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1995; Tái bản lần thứ nhất, 2004.
[26] 60 năm Tài chính Việt Nam,  sđd, trang 43.
[27] Tài liệu: Nhà in Ngân hàng – 50 năm xây dựng và trưởng thành, trang 7.
[28] Lê Văn Hiến, Năm đầu tiên của giấy bạc cụ Hồ, Tạp chí Thị trường và Giá cả, số 6, 1991, trang 24.
[29] Nhật ký của một bộ trưởng, s.đ.d.
[30] Nhật ký của một bộ trưởng, sđd.
[31] Nhật ký của một bộ trưởng, sđd.
[32] Ông Thiện nhái lời Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên Nguyễn Hoàng: “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân”
[33] Lê Văn Hiền, đảng viên cộng sản, từng bị tù Sơn La; bạn, đồng chí và cộng sự của ông bà Đỗ Đình Thiện. Gia đình Lê Văn Hiền sống chung với gia đinh Đỗ Đình Thiện tại đồn điền Chinê, và cả những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Bắc.  Gia đình Lê Văn Hiền cũng từng là một cơ sở cách mạng ở Hải Phòng.
[34] Tức là đổi cho đồng bào địa phương những hàng hóa họ cần như muối, dầu thắp đèn, vải, diêm, thuốc lào, kim chỉ, phẩm nhuộm… để lấy gạo và thực phẩm..
[35] Bí danh này do anh em trong cơ quan đặt cho ông Thiện. “Hai” nghĩa là người anh thứ hai (sau anh Cả - Nguyễn Lương Bằng), còn “Chi” nghĩa là Chi-nê.
[36] Thanh Đạm, Tìm hiểu lịch sử một xí nghiêp (Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo), Nhà xuất bản Lao Động, 1979.
[37] Bí danh của ông Đỗ Đình Thiện.
[38] Thi đua lập công là một vở kịch vui theo làn điệu trống quân, còn Cao sinh Cao mẫu là một vở kịch thơ bi tráng với nội dung như sau: đất nước đang có giặc ngoại xâm, một chàng thư sinh giầu lòng yêu nước muốn nhập ngũ đánh giặc, nhưng còn mẹ già yếu không nơi nương tựa. Hiểu thấu lòng con đang bị giằng xé giữa nợ nước và tình nhà, người mẹ đã quyên sinh để cho con yên lòng lên đường cứu nước.
[39] Nguyễn Lương Bằng
[40] Giao thông.
[41] Tên khai sinh do ông bà Thiện đặt là Đỗ Thanh Niên (nghĩa là tuổi trẻ), một lần đến chơi, Bác Hồ đã gợi ý đổi thành Đỗ Thanh Liên (nghĩa là hoa sen xanh) cho hợp hơn với tên con gái.
[42] đồng chí
[43] Trường hợp thứ hai là ông bà Tống Minh Phương, một cơ sở tin cậy của Đảng và Bác trong thời gian hoạt động bí mật ở Trung Quốc.