Cháu Kim Hoa kính tặng Ông -Bà

Cháu Kim Hoa kính tặng Ông -Bà Blog này, nơi Lưu giữ những bài viết về Cụ Đỗ Đình Thiện- Trịnh Thị Điền

Thứ Năm, 3 tháng 2, 2011

CỔ TÍCH KHÔNG DÀNH CHO TRẺ THƠ

                                                                     Minh Tâm
       (Quân đội nhân dân 12100-12101, 23-24/1/1995)

Nhân một việc có liên quan đến Hội Toán học Việt Nam, qua giới thiệu của một bạn đồng nghiệp, tôi tìm đến nhà riêng giáo sư, tiến sĩ Đỗ Long Vân - Chủ tịch Hội, ở số 76 Nguyễn Du, Hà Nội.
Phòng làm việc của giáo sư ở gác 2, bộn bề sách vở nhiều thứ tiếng. Tôi chú ý đến tấm ảnh nhỏ đã nhuốm màu thời gian lồng trong khung kính, đặt trang trọng cạnh lọ hoa trên bàn viết. Trong ảnh, bên bờ biển một miền xa lạ nào đó, Bác Hồ, trong bộ đại cán màu sáng, đứng đối diện là một người mặc com-lê hao hao giống chủ nhà. Thấy cái nhìn ngỡ ngàng của tôi, giáo sư giải thích: cụ ông thân sinh ra tôi đã có thời là thư ký của Bác. Ảnh chụp năm 1946 tại Pháp, trên bãi biển Biaritz.
-         Cụ còn khỏe không, thưa giáo sư? Tôi hỏi.
Giáo sư lắc đầu “bố tôi mất đã 21 năm nay rồi”! Tôi ngỏ ý muốn thắp hương cho cụ. Giáo sư dẫn tôi sang phòng bên, lễ phép nói với một cụ bà tuổi ngoại tám mươi đang đọc báo bên bàn nước.
-         Thưa mẹ, đây là anh bạn nhà báo, anh muốn thắp hương cho bố.
Cụ gật đầu tỏ vẻ cảm ơn rồi tự tay sửa sang bàn thờ, tự tay đốt nến giúp lễ. Dưới ánh nến lung linh, dòng chữ trên bức ảnh thờ hiện lên huyền ảo: Đỗ Đình Thiện 1904 – 1972.
Bữa ấy, trong gian phòng nồng ấm hương trầm, và tuần trà pha đúng cách người Hà Nội xưa, cụ Trịnh Thị Điền (tức cụ bà Đỗ Đình Thiện), theo đề nghị của tôi, đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:
... Bà Điền gặp Bác Hồ lần đầu tiên vào mùa thu năm 1945, lúc bà còn ở 54 phố Hàng Gai, Bác đang ở nơi làm việc cũ của tướng Mô-li-e, đối diện nhà Thủy Tọa. Sau lời giới thiệu của bác Cả (tức ông Nguyễn Lương Bằng), Bác cười thân mật “ờ, cô cũng còn trẻ đấy nhỉ”, rồi Bác hỏi thăm chuyện gia đình, chuyện làm ăn, như đã quen biết từ lâu. Chả là bà Điền lúc bấy giờ tuy mới 34 tuổi, nhưng đã làm ăn giàu có và khá nổi tiếng trong giới tư sản Hà Nội. Bà có tiệm buôn tơ lụa ở Hà Nội, nhà máy dệt ở Gia Lâm, và đồn điền cà phê lớn ở Chi-nê mua lại của một chủ người Pháp năm 1943 với giá 2000 lượng vàng. Có lẽ trong hình dung của Bác, một người như thế phải lớn tuổi hơn nhiều. Một ngày cuối tháng 5 năm 1946, ông Nguyễn Lương Bằng đến 54 Hàng Gai báo cho ông nhà tôi rằng, Bác muốn ông nhà tôi tháp tùng Bác đi Pháp. Sau vài phút suy nghĩ có vẻ lung lắm, ông nhà tôi hỏi lại với vẻ khiêm nhường:
- Tôi có thể không đi được không?
- Nếu anh tìm được người đủ tin cậy thay anh thì anh có thể ở lại – Ông Bằng trả lời.
Và thế là ông nhà tôi đành nhận lời.
Chỉ ít ngày sau, ông Đỗ Đình Thiện, trong cương vị thư ký riêng, và ông Vũ Đình Huỳnh trong cương vị đại tá cận vệ đã tháp tùng Bác trong chuyến ngoại giao đầu tiên của Chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng hòa, nhằm mục đích cứu vãn hòa bình ở Việt Nam, để rồi sau đó, khi hội nghị Phông-ten-nơ-bơ-lô bị bế tắc, đã ký tạm ước 14-9-1946. Tại sân bay Gia Lâm - cụ Điền kể tiếp, khi máy bay cất cánh, cụ bà thân sinh ra ông nhà tôi đã không cầm được nước mắt. Có lẽ, không phải bằng lý trí, mà là bằng linh cảm của một người mẹ, cụ hiểu rõ tầm quan trọng cũng như mối hiểm nguy có thể trong chuyến đi này của Bác. Và quả nhiên, trong thời gian ở Pháp, khi tháp tùng Bác đi thăm Noóc-măng-đi cùng với Sanh-tơ-ni, ông Thiện đã bị tai nạn ô tô rất nặng, nhưng may mắn thoát chết!

Đưa tin về vụ tai nạn này, một số tờ báo Pháp hồi bấy giờ đã đặt dấu hỏi: “Phải chăng đây là một vụ mưu sát trượt Chủ tịch Hồ Chí Minh?”. Nhưng rồi mọi việc cũng bị lãng quên đi, nhường chỗ cho những sự kiện lớn lao cấp bách hơn (vụ tai nạn này đã được tường thuật chi tiết trong tập nhật ký làm việc của Bác do ông Thiện ghi chép, nay lưu giữ tại Bảo tàng cách mạng).
Ngày 20-10-1946, Bác về đến Hải Phòng trên chiếc thông báo hạm Đuy-mông-đơ-vin-lơ có 150 sĩ quan, thủy thủ Pháp hộ tống. Cùng về với Bác, ngoài các ông Đỗ Đình Thiện và Vũ Đình Huỳnh còn có 4 trí thức Việt Kiều là kỹ sư Phạm Quang lễ (tức Trần Đại Nghĩa), kỹ sư Võ Quý Huân, kỹ sư Võ Đình Quỳnh và bác sĩ Trần Hữu Tước. Bác và các anh em khác về Hà Nội trước, ông nhà tôi được phân công ở lại Hải Phòng tiếp đoàn thủy thủ Pháp. Khi về đến Hà Nội, Bác cho gọi ngay tôi lên bảo “Bác đưa chú Thiện về trả cô nguyên vẹn đấy nhé”.
Cụ Điền ngừng lời, nhẹ bước về phía bàn thờ thay một tuần hương mới cho cụ ông. Giọng cụ chậm rãi, xa xăm:
-         Nhưng mà chuyện đi Pháp của ông nhà tôi với Bác còn có một duyên do dài lắm. Ông nhà tôi là con út trong một gia đình viên chức, mồ côi cha từ lúc 5 tháng. Mẹ chồng tôi ở vậy từ năm 30 tuổi, nuôi con ăn học. Anh cả ông Thiện là kỹ sư hỏa xa, anh thứ hai là kỹ sư công chính. Thời học sinh, ông Thiện học ở trường Hàng Vôi. Sau vì tham gia phong trào để tang cụ Phan Chu Trinh, bị đuổi học, phải “đổi khai sinh” xuống học ở Nam Định. Ông Thiện nuôi chí du ngoại từ rất sớm. Thương con út không muốn cho đi xa, bà cụ bèn nghĩ mẹo hỏi vợ để ... cầm chân ông nhà tôi. Đã coi mặt 3, 4 đám gì đó, nhưng ông Thiện không ưng. Sau nhờ anh em ông Cát Thành, Cát Tường, thành viên phong trào “Đông kinh nghĩa thục”, có quen biết với cả hai nhà giới thiệu, chúng tôi gặp nhau và ưng thuận. Thế là làm lễ ăn hỏi. Nhưng không vì thế mà ông Thiện thay đổi kế hoạch đi Pháp du học. Đó là vào năm 1927, tôi tròn 16 tuổi, ông Thiện bước sang tuổi 24.
Một ông bạn sau này kể lại rằng, ông đã chứng kiến mẩu đối thoại (bằng tiếng Pháp) sau đây giữa ông Đỗ Đình Thiện và ông Trịnh Đình Cửu, bạn học của ông Thiện, trước ngày ông Thiện lên đường du học.
-         Anh có bầu máu nóng không? – Ông Cửu hỏi.
-         Chừng nào tim tôi còn đạp thì máu tôi còn nóng – ông Thiện trả lời.
Ở Pháp, ông Thiện vừa học vừa tham gia hoạt động cách mạng, rồi vào Đảng Cộng sản Pháp. Đã có lúc ông đi học nghề thợ sơn để hưởng ứng chủ trương “vô sản hóa” ở trong nước. Còn tôi - cụ Điền tiếp, ở trong nước, qua giới thiệu của cậu em họ là Ngô Đình Mẫn, tôi bắt đầu tham gia hoạt động ở chi bộ phố Huế của Đảng Tân Việt. Sau này khi cách mạng thành công, trong một bữa cơm thân mật ở nhà tôi, Bác nói vui “nhờ cô chú rủ nhau đi làm cách mạng, nay mới có dịp sum họp đông vui thế này”. Tôi thưa với Bác: “Không ai rủ ai đâu ạ, cháu tự đi thôi, anh Thiện cũng vậy”.
Đầu năm 1930, sau khi ba Đảng hợp nhất, một hôm chị Minh Khai và chị Phụ đến 41 Hàng Mắm tìn cô Điền cho biết rằng, Đảng chủ trương tăng cường gây dựng cơ sở ở Hải Phòng – Hòn Gai là nơi tập trung nhiều công nhân, rằng nếu có điều kiện thì nên thoát ly gia đình xuống Hải Phòng hoạt động. Thế là cô Điền quyết định ra đi. Trước khi đi, vì mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm 4 tuổi, ở với ông anh cùng cha khác mẹ, nên cô đã để lại cho ông anh một lá thư tỏ ý chán đời muốn đi tu! Anh cô tưởng thật, đã cho in ảnh cô nhờ sở cảnh sát tìm kiếm khắp các chùa chiền.
Tại Hải Phòng, cô Điền bắt liên lạc với ông Nguyễn Tạo, là người cùng hoạt động ở chi bộ phố Huế trước đây. Nhóm hoạt động của cô gồm ông Nguyễn Tạo, ông Chức, ông Sáng và 2, 3 công nhân in có nhiệm vụ in tài liệu, làm giấy thuế thân và căn cước giả để các đồng chí đi hoạt động. Cô Điền bán sợi dây chuyền 2 chỉ vàng để mở quán cơm làm địa điểm liên lạc vận động công nhân. Từ Hải Phòng, cô Điền cũng thường chuyển tài liệu về Hà Nội, Hòn Gai. Lúc ấy cực lắm. Hoạt động cách mạng mà trốn Tây thì ít, trốn “quân ta” nhiều hơn. Thoáng thấy bóng người quen là phải lánh mặt, rất ngại người ta nghi ngờ bảo đi tu chùa sao lại lang thang ở Hải Phòng, Quảng Ninh thì trả lời cách sao cho lọt tai, cho thoát tù đây? Và rồi cô bị tù thật, do một tên phản bội chỉ điểm. Pháp giam cô ở Sở Cẩm Hải Phòng sau giải về mật thám Hà Nội. Đòn tù của Pháp cũng kinh hãi lắm. Chúng đưa ảnh Trần Phú, Nguyễn Ái Quốc ra hỏi. Và cứ mỗi cái lắc đầu lại nhận ngay một “trùy” vào cái đầu vừa lắc. Rồi thì cứ khoảng 2 giờ đêm, lúc tinh thần con người ta mềm yếu nhất, chúng lục dậy treo ngược lên xà nhà, đánh từ trên xuống, lại đánh từ dưới lên. Nhưng cũng may, nhờ ở tù của Pháp mà cô Điền có cơ hội làm quen với các nhà cách mạng vừa bị bắt ở Thượng Hải về như các ông Nguyễn Lương Bằng, Hồ Tùng Mậu, Đỗ Ngọc Du ... Lại cũng đã gặp ông Lê Duẩn ở trong lao. Sau này đã có lần đồng chí Lê Duẩn nói với con gái cụ Điền “mẹ cháu tốt lắm, ở trong tù, mẹ cháu còn nhường cơm cho chú đấy!”.
Cuối năm 1931, cô gái 20 tuổi Trịnh Thị Điền đã quyết tuyệt thực một tuần liền để phản đối việc tra tấn dã man và ngược đãi phụ nữ. Sợ cô chết, người Pháp phải đưa cô ra điều trị ở nhà thương Phủ Doãn. Và sau đó, phải trả tự do cho cô, vì chẳng khai thác được gì, cũng chẳng có bằng cớ buộc tội. Chánh mật thám Ac-nuc giao cô cho anh cô quản thúc: “Con này cứng đầu cứng cổ lắm, không chịu khai gì cả, nếu nó trốn thì chúng tôi bắt anh”. Trong thời gian cô Điền điều trị ở nhà thương Phủ Doãn, các ông Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Tạo ... cũng bị giam trong khu tù của bệnh viện. Biết ý đồ vượt ngục của nhóm này, cô Điền đả gửi vào cho ông Nguyễn Tạo 2 lưỡi cưa sắt bằng nửa ngón tay út nhét trong đôi dép dừa, giúp nhóm này vượt ngục vào đêm Noel 1931.
Cùng thời gian này, ông Đỗ Đình Thiện bị bắt tại Pháp. Giáo sư Trương Công Quyền kể lại rằng: “Anh Đỗ Đình Thiện là bạn học của tôi từ năm 1927. Anh Thiện có tham gia hoạt động cách mạng, là đảng viên Cộng sản Pháp ... Trong thời gian anh Thiện ngồi tù, tôi có vào thăm anh Thiện nhiều lần cùng các đồng chí đảng viên Cộng sản Pháp ... Lần cuối cùng tôi đến thăm thì được trả lời là anh Thiện không còn trong tù nữa, mà đã bị trục xuất về nước”.
Bị quản thúc chặt chẽ, nhà cửa thường xuyên bị khám xét, ông bà Đỗ Đình Thiện trở về với những công việc đời thường, mở hiệu buôn bán tơ lụa, rồi tậu đất, dựng nhà máy, đồn điền. Đến đầu những năm 40, thì ông bà Thiện đã được giới tư sản Hà Nội biết tiếng và kính nể. Ông bà Thiện giúp đỡ bạn bè nhiều lắm, còn dám cả gan nhận một số bạn ở tù ra vào làm việc: Vũ Đình Huỳnh làm ở tiệm buôn, Nguyễn Tuấn Thức và Lê Văn Hiền làm ở đồn điền Chi Nê. Trước hết là để anh em có việc làm, sau đó là để tiện việc liên lạc với cách mạng.
Năm 1943, ông Nguyễn Lương Bằng vượt ngục Sơn La, nhắn tin qua ông Vũ Đình Huỳnh là muốn gặp ông Thiện. Ông Thiện hẹn gặp tại nhà riêng. Thế là bác Cả đóng vai một người buôn tơ đến tìm ông Thiện tại 54 Hàng Gai. Ông Bằng cho biết, Đảng đang rất khó khăn về tài chính. Bà Điền lên gác mở tủ đưa ông Bằng ba vạn đồng Đông Dương. Năm 1972, trong một lần tiếp bà Điền tại nhà riêng, đồng chí Trường Chinh, khi nhắc lại sự việc này, đã nói “Khi chúng tôi nhận được ba vạn đồng Đông Dương chị gửi cho qua anh Nguyễn Lương Bằng, quỹ Đảng chỉ còn 24 đồng”. Chính ông Bằng sau này có kể lại với ông Nguyễn Tuấn Thức rằng, ông thực sự bàng hoàng khi nhận số tiền lớn như vậy từ tay bà Điền. Đầu năm 1945, ông bà Thiện lại nhờ ông Vũ Đình Huỳnh chuyển tới ông Nguyễn Lương Bằng mười vạn đồng Đông Dương nữa. Ông Nguyễn Tạo cũng ghi nhận. “Cuối tháng 12-1932, tôi vượt ngục ở Hỏa Lò. Đồng chí Trịnh Thị Điền lại liên lạc với đồng chí Nguyễn Thụy Nhân giúp đỡ tôi. Năm 1943, tôi vượt ngục Ban Mê Thuột ra tới Hà Nội, đồng chí Trịnh Thị Điền lại liên lạc, cho tôi hai vạn đồng Đông Dương để tổ chức hoạt động cách mạng”.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nhà riêng ông bà Thiện ở 54 Hàng Gai trở thành “nhà khách” của Chính phủ. Các phái đoàn Nam Bộ, Phụ nữ Nam Bộ ... đều đã qua đây nghỉ ngơi, ăn uống, may quần áo. Bác cũng đã mời cơm cụ Huỳnh Thúc Kháng tại đây. Bà Điền còn được giao tổ chức tiệc ở phố Nguyễn Du để Bác tiếp tướng Tiêu Văn, Lư Hán ... Ông Thiện được cử phụ trách “quỹ độc lập” trung ương. Khi ấy, ông Thiện đã góp vào quỹ này mười vạn đồng Đông Dương (trị giá 4kg vàng). Trong tuần lễ vàng, ông bà Thiện lại ủng hộ 4kg nữa. Dịp ấy một tờ báo đã đăng mẩu tin như sau: “7-10-1931, một sinh viên tòng học năm thứ 3 trường Đại học khoa học ở Tu-lu-dơ bị bắt ở ga Ma-la-bơ-lăng vì tặng bánh mì có truyền đơn nhét vào trong ruột cho binh lính Việt Nam mãn hạn lên tàu về nước. Truyền đơn này xúi giục binh lính khi trở về nước thì bất tuân thượng lệnh và hưởng ứng phong trào cách mạng. 19-11 năm đó, sinh viên ấy bị tòa án Tu-lu-dơ phạt 4 tháng tù, sau khi nhận hoàn toàn trách nhiệm về việc mình làm, nhưng không chịu khai ai là đồng phạm. Sinh viên ấy, một đảng viên Cộng sản tên là Đỗ Đình Thiện, người mà ai nấy đều biết tiếng về “Tuần lễ vàng” vừa rồi. Khàng chiến toàn quốc bùng nổ, ông Thiện với tư cách phó chủ tịch Ủy ban kháng chiến khu Hoàn Kiếm, bà Thiện phụ trách tiếp tế cứu thương đã cùng tự vệ thành chiến đấu bảo vệ Thủ đô trong 10 ngày đêm, sau đưa hơn 300 cán bộ, nhân dân, bí mật theo đường Chèm rút ra vùng tự do. Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, đồn điền Chi Nê của ông bà Đỗ Đình Thiện trở thành “binh trạm của Việt Minh; là nơi qua lại, dừng chân của nhiều cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước trên đường lên chiến khu Việt Bắc; là nơi dừng chân và dưỡng sức của nhiều đoàn quân trước khi ra mặt trận và trên đường Nam tiến. Bác cũng đã qua lại nơi đây nhiều lần. Vụ lúa thu 1946-1947, ông bà Thiện đã ủng hộ Vệ quốc đoàn chiến khu 2 khoảng 200 tấn thóc. Trong thư đề ngày 21-1-1947, khu trưởng Hoàng Sâm và chính trị ủy viên Lê Hiến Mai gửi ông Đỗ Đình Thiện đã viết “Toàn thể bộ đội khu hai rất cảm động được ngài ủng hộ vụ lúa thu trong quý đồn điền năm 1946-1947 ... Với lòng tha thiết của ngài trong công cuộc kháng chiến hiện nay, toàn thể bộ đội khu hai xin hứa luôn luôn nỗ lực chiến đấu, quyết hợp lực cùng toàn dân phá tan kế hoạch mùa đông của địch để xứng với sự nhiệt tình ngài đã dành cho”.
Sau Cách mạng Tháng Tám, theo yêu cầu của Bộ Tài chính, ông Đỗ Đình Thiện đã đứng tên mua lại nhà in Tô-pin của Pháp (vì người Pháp không chịu bán cho Chính phủ ta), lại cho Bộ Tài chính mượn địa điểm, nhà xưởng, nhà máy điện, nước của đồn điền Chi Nê để đặt nhà máy in tiền đầu tiên của nước VNDCCH do ông Phạm Quang Chúc phụ trách.
Ông Lê Văn Hiến, nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính đã từng viết:
“Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ông bà Đỗ Đình Thiện đã có nhiệt tình đóng góp nhiều cho cuộc kháng chiến: Ông bà đã dành một địa điểm rất thích hợp tại Cổ Nghĩa, Chi Nê để Bộ Tài chính xây dựng một nhà máy in bạc tương đối lớn, đáp ứng yêu cầu về tài chính trong thời gian đầu cuộc kháng chiến”. Ngày 22-2-1947, 8 máy bay khu trục Pháp oanh tạc đồn điền Chi Nê, tài sản của ông bà Thiện bị thiêu hủy nặng nề, nhiều kho vật liệu, sản phẩm (cà phê) bị cháy không cứu chữa được. Được tin này, Bác gửi tới ông bà Thiện tấm thiếp như sau: “ Chú thím Thiện. Được tin chú thím, nhà Hiền (là bạn đồng thời là người cộng sự của ông bà Thiện – T.G) và các cháu đều bình an, tôi rất vui lòng. Mất của cải, không sợ (còn trời còn nước còn non, thì còn của cải bà con họ Hồ). Kháng chiến thành công, ta làm ra của khác, chắc chắn hơn. Chúc các chú thím mạnh khỏe. Hôn các cháu. Chào thân ái và quyết thắng”.
Sau trận bom ấy, ông bà Đỗ Đình Thiện đưa cả gia đình gồm mẹ già và 4 con (nhỏ nhất mới 4 tuổi là Đỗ Long Vân; và 3 chị gái là Đỗ Thanh Liên, Đỗ Kim Anh, Đỗ Thiên Hương mà lớn nhất mới 12 tuổi và sau này đều là trí thức cách mạng) lên Việt Bắc, theo đuổi cuộc kháng chiến 9 năm. Nhà “tư sản cách mạng” hay đúng hơn là nhà “tư sản của cách mạng” Đỗ Đình Thiện cũng ba lô trên vai, trèo đèo lội suối, cùng anh em công nhân đẩy mảng trên dòng suối lũ để xây dựng nhà máy cơ khí đầu tiên tại chiến khu Việt Bắc – nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo mà ông Thiện được đồng chí Nguyễn Lương Bằng mời làm giám đốc trưởng. Rồi sau đó lại tham gia thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam ở chiến khu Việt Bắc.
Đang dở câu chuyện, bỗng dưng cụ Điền tủm tỉm cười “ông nhà tôi làm giám đốc nhưng không chịu hưởng lương”. Bác Cả hỏi “sao kỳ vậy”. Ông tôi bảo “hưởng lương khó làm việc lắm. Không lương dễ nói hơn”. Cụ Điền lại ngừng lời và lại khẽ khàng đến bên bàn thờ thắp tuần nhang mới cho cụ ông. Cụ nói, như dành cho một mình vong linh của cụ ông thôi “thời buổi này mà nói chuyện cũ e người ta khó tin ông ạ”. Rồi cụ quay ra nói với tôi, có những chuyện nay nghĩ lại thấy buồn cười lắm! Trong kháng chiến, ông tôi không nhận lương, hòa bình rồi, làm Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng không có lương. Cho đến lúc ốm vào nằm ở bệnh viện Việt-Xô, bệnh viện lúng túng chẳng biết xếp vào tiêu chuẩn nào. Thấy các vị Bộ Chính trị và lãnh đạo Nhà nước thường xuyên đến thăm, bác sĩ chủ nhiệm khoa hỏi nhỏ tôi “thế lương cụ ông bao nhiêu?”. Tôi trả lời “ông tôi không có lương”, ông bác sĩ tỏ vẻ không tin, lẳng lặng bỏ đi. Cả chuyện này nữa, nghe có vẻ khó tin: Suốt cả thời bao cấp, cụ Thiện chỉ hưởng bìa “N” (thứ tem phiếu dành cho dân thường mỗi tháng được mua một lạng đường và một lạng thịt).
Ngày đầu tiên của năm 1972, giữa 2 trận bom của không quân Mỹ, cụ Đỗ Đình Thiện mất (1-1-1972) thọ 69 tuổi. Các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quốc hội đều tới viếng. Đồng chí Nguyễn Lương Bằng tới đầu tiên, muốn nhìn mặt bạn lần chót, nhưng nhà đã liệm xong. Chủ tịch Trường Chinh đến hai lần. Một lần đi với phu nhân, đồng chí nói: “Hôm nay tôi tới hỏi thăm gia đình. Ngày mai tôi tới viếng anh”. Nhóm bạn đồng học ở Pháp cũng có mặt đủ: Giáo sư Trần Văn Giàu, giáo sư Trương Công Quyền, ông Nguyễn Văn Long, ông Châu Lượng, ông Phan Tư Nghĩa, họa sĩ Phi Hoanh ... Lúc viếng cụ Đỗ Đình Thiện, có ai đó đã thì thầm khấn “Giàu không bỏ bạn, nghèo không bỏ bạn, gian nan vẫn thủy chung với bạn! Suốt một đời chúng tôi theo học cái nghĩa tình trước sau như nhất của anh!”.
Tôi nói với cụ bà Đỗ Đình Thiện “chuyện của các cụ nghe cứ như ... cổ tích ấy”. Đúng là cổ tích nhưng mới xảy ra hôm qua thôi, do Đảng, Bác Hồ kính yêu khơi nguồn. Các cụ là nhà tư sản của cách mạng, nhờ hoạt động cách mạng mà trở thành tư sản để phục vụ cách mạng! Giáo sư Long Vân cho tôi xem toàn bộ thư từ của Bác, của Bác Cả gửi cho gia đình ở Chi Nê, ở Việt Bắc. Giáo sư còn cho xem tập an bom ảnh những ngày cụ ông Đỗ Đình Thiện làm việc cùng Bác ở Pháp, ảnh Bác đến thăm gia đình giáo sư ở rừng Việt Bắc, cả tập nhật ký làm việc của Bác do cụ Đỗ Đình Thiện ghi tại Pháp mà Viện nghiên cứu Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng vừa mới gửi tặng gia đình hôm 29-11-1993.
Bàn tay vị giáo sư trượt khỏi tập an bom ảnh, đôi mắt thông minh của ông chợt xa vắng như dõi về nơi sâu thẳm của ký ức. Có lẽ ông đang nhớ về một thời sống đẹp đến hoàn mỹ của người cha đáng kính.
Đội Cấn đầu đông 1994

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét